Sau 4 năm xem xét tham khảo các bản tấu trình của các thầy địa lý cho việc chọn đất xây dựng lăng, vua Khải Định đã quyết định chọn núi Châu Chữ (nay thuộc xã Thủy Bằng, thành phố Huế) để xây dựng sơn lăng cho mình. Sau khi ngự xem địa cuộc, nhà vua đã cho đổi tên núi Châu Chữ thành núi Ứng và đặt tên công trình là Ứng Lăng.

Tiểu sử vua Khải Định
Vua Khải Định là vị Hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn, tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn); sinh ngày 08 tháng 10 năm 1885 (mồng 01 tháng 09 năm Ất Dậu); là con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Tiên Cung Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu).
Sau khi vua Duy Tân bị đưa đi an trí tại đảo Réunion, triều đình Huế và người Pháp lập ông hoàng Bửu Đảo lên ngôi vào ngày 18 tháng 05 năm 1916 (ngày 17 tháng 04 năm Bính Thìn), lấy niên hiệu là Khải Định.
Vua Khải Định trị vì đất nước trong bối cảnh thực dân Pháp đã đàn áp hầu hết các cuộc khởi nghĩa và ra sức tổ chức khai thác tài nguyên khoáng sản của nước ta, đồng thời đặt ra nhiều thứ thuế để vơ vét. Triều đình Huế không có thực quyền đối nội cũng như đối ngoại.
Năm 1922 nhà vua thực hiện chuyến công du sang Pháp dự hội chợ (đấu xảo thuộc địa) tại Merseille, nhân chuyến đi này, nhà vua muốn vận động các dân biểu trong quốc hội Pháp và giới báo chí yêu cầu Pháp nới lỏng quyền thống trị, thực hiện đúng hiệp định Giáp Thân (1884), nước Pháp chỉ là nước bảo hộ, nhưng việc chẳng thành. Tuy nhiên, chuyến đi này cũng đã giúp vua Khải Định nhận ra phương pháp làm việc của triều đình Huế đã quá lỗi thời, đồng thời thấy rõ tình hình thế giới thay đổi có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tương lai đất nước. Đặc biệt, trong thời gian ở Pháp, vua Khải Định đã đi thăm nhiều nơi và choáng ngợp, cũng như hâm mộ các công trình kiến trúc của phương Tây. Nhà vua đã có nhiều quan niệm nhận thức mới, từ đó ảnh hưởng đến kiểu thức kiến trúc cũng như trang trí mỹ thuật tại lăng của vua, cũng như các công trình xây dựng và trùng tu tại Huế.
Năm Giáp Tý (1924), vua lâm bệnh, nhưng trong năm này lễ Tứ tuần Đại khánh của nhà vua vẫn được tổ chức hết sức long trọng. Qua năm Ất Sửu (1925), bệnh tình trở nên trầm trọng vua Khải Định băng hà, hưởng dương 41 tuổi.
Kiến trúc xây dựng lăng
Ứng Lăng tọa lạc trên ngọn đồi cao, nhìn về hướng Tây Nam. Lấy núi Tứ Tượng xa xa phía trước làm “tiền án”, bên trái là núi Kim Sơn làm “Thanh Long” (rồng xanh), bên phải có dãy núi Chóp Vung làm “Bạch Hổ” (hổ trắng). Ngay sát dưới chân núi trước mặt Ứng Lăng có dòng suối Châu Ê chảy từ trái sang phải, là nơi tích phúc tụ lộc cho con cháu, tạo nên yếu tố “Minh đường” chầu vào lăng vua trong quan niệm phong thủy. Núi Châu Chữ vừa là “hậu chẩm”, vừa là mặt bằng của lăng.
Cấu trúc lăng Khải Định: mặt bằng hình chữ nhật chạy thoai thoải lên đồi cao, có chiều dài là 117m và chiều ngang 48,5m, được phân bố theo một trục dọc với 127 bậc cấp, chia thành 05 tầng sân, trên mỗi tầng cấp đi lên đều có xây thành bậc đắp hình con rồng. Ứng Lăng có diện tích nhỏ, khiêm tốn, nhưng lại là lăng xây cao nhất, tốn kém nhất và kéo dài thời gian xây dựng nhất (từ năm 1920 đến 1931) trong 7 khu lăng của triều Nguyễn.
Để làm nên công trình đồ sộ và tráng lệ này, vua Khải Định đã cho sử dụng những vật liệu có tính bền vững, ngoài đá Thanh, đá cẩm thạch, gạch, vôi lấy từ trong nước, vua còn đặt mua sắt, thép, xi-măng, ngói Ác-Đoa từ Pháp về; đồng thời Bộ Công của triều đình còn cho những đoàn thuyền buôn sang tận Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sành sứ, thủy tinh màu còn nguyên vẹn, sau đó đập vỡ, cắt để trang trí thành những bức phù điêu nổi ở Thiên Định Cung.
Ứng lăng được xây dựng dưới sự chỉ huy của tiền đô thống phủ Lê Văn Bả cùng các nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như: Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng… Để có thêm kinh phí xây dựng lăng và mừng thọ của mình, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho triều đình tăng thuế khắp cả nước thêm 30%. Từ đó dân gian có câu:
“Thọ đáo tứ tuần mừng mẹ nước
Bách gian tam thập chết cha dân”
Lăng vua Khải Định là sự kết hợp hài hòa giữa những dòng kiến trúc Đông -Tây, Á – Âu, Kim – Cổ, chúng ta dễ dàng nhìn thấy hàng rào xung quanh là những cây thánh giá của các nhà thờ Thiên Chúa giáo, bên cạnh là những tòa sen của Phật giáo. Cổng chính của lăng chia thành ba lối ra vào với những lăng trụ cổng hình tháp (ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ), nhưng lại được đặt cạnh bên những trụ đăng (trụ đèn) là hoa văn truyền thống của đình làng miền Bắc; ở giữa là những cánh cửa sắt mang đậm nét kiến trúc phương Tây.
Các công trình bên trong lăng vua Khải Định
Sân chầu – Nhà bia
Bước vào cổng chính uy nghi là tầng sân thứ nhất, hai bên có hai nhà Tả, Hữu Trực phòng, là nơi thờ tự các quan văn võ (tuy nhiên hai công trình này chưa từng được sử dụng), hiện nay tại hai công trình này Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho trưng bày bức ảnh tư liệu, mô hình sa bàn nhỏ về kiến trúc của Ứng lăng, để tạo điều kiện cho du khách tìm hiểu về một số hoạt động cũng như lễ đám tang của vua Khải Định.
Tầng sân thứ hai có nhà Bi Đình, phía trước có dựng Vũ Môn được xây theo kiến trúc mỹ thuật của Nho giáo, lấy từ điển tích “Cá chép vượt Vũ Môn”. Bi Đình (nhà bia) được xây theo kiểu bát giác, bốn mặt trổ cửa vòm xây theo lối kiến trúc Roman của Pháp, bên trong nhà dựng tấm bia đá “Thánh Đức Thần Công” do vua Bảo Đại dựng để ghi công đức của vua cha mình là vua Khải Định. Trước sân Bái Đình, hai bên trái và phải thiết đặt tượng các quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi được làm chia thành bốn hàng, theo nguyên tắc “tiền văn, hậu võ”, “tiền mã, hậu voi”. Những bức tượng này góp phần tăng thêm sự uy nguy và sống động trong khu lăng. Cuối sân chầu là hai trụ biểu cao trên 10m, chóp trụ có kiến trúc Stupa Ấn Độ, bốn góc của trụ biểu trang trí hoa văn ảnh hưởng phong cách mỹ thuật kiến trúc Hy Lạp. Hai trụ biểu này được ví như hai ngọn đuốc sáng soi đường dẫn lối cho linh hồn nhà vua về với cõi vĩnh hằng, cũng là tiêu chí của khu lăng mộ để từ xa người ta đã nhìn thấy mà biết gìn giữ lễ tiết tác phong vì đang vào giới hạn của một khu vực trang nghiêm.

Thiên Định Cung
Cung Thiên Định là công trình chính nằm ở vị trí cao nhất và quan trọng nhất của lăng, được xây dựng vô cùng công phu và tinh xảo, là nơi mà những người thợ gởi gắm và phô diễn tài năng của mình. Cung Thiên Định nhìn như một tòa lâu đài tráng lệ, ở tiền sảnh các ô hộc trang trí hoa văn chữ hình chữ “Triện” và mặt “Hổ phù”. Phía trên cửa chính của cung đề ba chữ “Thiên Định Cung”. Hai bên trang trí bốn câu đối:
– Hai câu phía gian bên trái:
Phiên âm:
“Tử điện hiến kỳ quan, phong cảnh biệt khai vũ trụ
Ức niên chung vượng khi, giang sơn trường hộ trừ tư
Dịch nghĩa:
Bốn mặt dâng hiến kỳ quan, phong cảnh mở ra một vũ trụ biệt lập
Muôn năm hun đúc nên vượng khí, núi sông giúp đỡ mãi hoài
– Hai câu phía gian bên phải:
Phiên âm:
“Phong cảnh vô biên vạn trạng thần kỳ thiên tác hợp
Giang sơn hữu chủ thiên thu phúc, ám địa lưu du”
Dịch nghĩa:
Trong phong cảnh rộng mênh mông có nhiều hình trạng đẹp tuyệt vời do trời cho hợp lại
Núi sông có chủ, ngàn năm ơn trạch của tổ tiên để lại cho con cháu ở dưới đất này rất nhiều

Cung Thiên Định là tòa nhà có cấu trúc ba gian, gian ở giữa là Khải Thành Điện, nơi đặt án thờ và chân dung của vua Khải Định, hai bên là nhà Tả Hữu Trực phòng dành cho lính hộ lăng. Sau án thờ là Huyền Cung (mộ của vua), bên trong cùng là khám thờ nơi thiết đặt bài vị của vua Khải Định. Toàn bộ điện Khải Thành hoa văn trang trí gần như phủ kín các mảng tường những hoa văn, hay những phù điêu được sắp đặt trong các ô hộc hình vuông hình chữ nhật nằm dọc nằm ngang rất sinh động (hoa văn đắp nổi lên một mặt, loại hình nghệ thuật này gọi là “phù điêu”. Bằng đầu óc thông minh, sự chọn lọc tinh tế cùng đôi bàn tay khéo léo, những người thợ Việt Nam thời bấy giờ đã biến cung Thiên Định trở thành biểu tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh màu. Nội dung các bức tranh thể hiện quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” của vị vua trong việc cai trị đất nước. Những điển tích cổ miêu tả về quy luật thiên nhiên của trời đất, hay các vật dụng hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis… Ngoài ra trên các mảng tường ở phần mộ và hậu điện đều trang trí nhiều chữ “Phúc”, chữ “Vạn”, chữ “Thọ” được cách điệu hóa bằng rất nhiều hình thức khác nhau, khi thì hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông khi thì hình cái lư, cái lồng đèn…, với ý nghĩa chúc nhà vua sống lâu, kể cả ở thế giới vĩnh hằng.
Đặc biệt hơn cả là ba bức bích họa tuyệt đẹp, ảnh hưởng mô – típ trang trí của phương Tây ở trên phía trần nhà của Khải Thành Điện, có tên gọi “Cửu Long ẩn vân”, với đề tài mang ý nghĩa cao quý (theo quan niệm của phương Đông: Rồng là linh vật của cư dân trồng lúa nước, cũng là tượng trưng cho nhà vua, rồng gặp mây như tướng gặp vua hiền). Đây là ba bức bích họa được các họa sĩ Việt Nam hiện đại công nhận là hoành tráng, có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội họa nước nhà

Phía trên bức tượng là chiếc Bửu tán (là cái tàng che quý báu) được đúc bằng xi – măng ghép sành sứ, chiếc Bửu tán này được đúc bởi một khối xi – măng nặng hơn 1 tấn, trên có móc sắt móc treo gần sát với trần nhà. Phía bên trong lòng của Bửu tán trang trí nguyên hình một con rồng miệng ngậm chữ “Thọ” (“Long hàm Thọ”với ý nghĩa: vua sống lâu). Mỗi góc Bửu tán đắp hình 04 con dơi ngậm vòng tròn (với ý nghĩa: phúc trọn vẹn). Xung quanh Bửu tán trang trí mỗi mặt 9 con rồng cùng những con rồng nhỏ uốn lượn, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở…

Sau pho tượng vua Khải Định là hình ảnh mặt trời đang lặn, theo quan niệm của Nho giáo thì vua là thiên tử, vua cao cả như mặt trời, hình ảnh mặt trời lặn mang ý nghĩa vua băng hà và đây là nơi an nghỉ của nhà vua. Quanh tường trên các kệ còn có các vòng hoa của người Pháp cùng các đoàn quốc tế đến thăm viếng trong lễ tang của nhà vua năm 1925, chất liệu các vòng hoa này được làm bằng thiếc dát mỏng.
Huyền Cung (mộ vua)
Khác với các khu lăng của các vị tiên để nhà Nguyễn, đường toại đạo và nơi an nghỉ của vua cùng hoàng hậu luôn được bảo mật, thì lăng vua Khải Định lại không như vậy. Căn cứ vào bộ tư liệu ảnh về đám tang của vua Khải Định, thì đường hầm toại đạo này được bắt đầu ngay từ những bậc cấp phía bên ngoài cửa chính của cung Thiên Định, chạy xuyên suốt vào cung điện và dừng ở chính vị trí trung tâm của tòa nhà. Đó là nơi an táng thi hài của nhà vua.
Giai thoại về ba bức họa (Cửu long ẩn vẫn)
Tương truyền để vẽ bức bích họa này, nghệ nhân Phan Văn Tánh đã phải cho kê một cái giá cao sát trần điện, sau đó miệng ngậm cây cọ cùng hai tay hai chân, mỗi tay mỗi chân giữ một cây cọ vẽ cùng một lúc như rồng bay phượng múa. Gặp lúc vua ngự tới xem, tất cả thợ và nghệ nhân đều dừng tay, quỳ làm lễ ra mắt vua, riêng nghệ nhân Bát Tánh vẫn nằm nguyên trên giá, có lẽ ông đã để hết tâm trạng vào bức vẽ, nên không nghe các được các lời tri hô của quân lính và thái giám kêu ông xuống lạy đức vua. Vua Khải Định đứng xem một lúc, thấy trên 5 cây cọ của nghệ nhân Bát Tánh đang vẽ như 5 con rồng ẩn hiện sau những đám mây, sinh động hài hòa. Quả là bức họa rồng có một không hai. Vua hằng giọng phán: “Vì trên đời này chỉ có một mình ngươi là Phan Văn Tánh! Nếu có đến hai Tánh thì Trẫm đã lấy cái đầu người rồi!”. Sau đó nhà vua vui vẻ truyền ban thưởng và thăng quan cho ông chức quan Bát phẩm.
Giá trị nghệ thuật lăng vua Khải Định
Lăng vua Khải Định là sự kết hợp nhiều dòng kiến trúc (Đông – Tây, Á – Âu cùng cổ điển và hiện đại). Đây là lăng duy nhất trong hệ thống lăng của các vua Nguyễn được xây dựng hoàn toàn bằng các nguyên liệu của phương Tây (xi – măng, sắt, thép). Đặc biệt, trong lịch sử triều Nguyễn, dưới thời vua Khải Định (1916 – 1925), ngoài lăng của vua ra thì một loạt các công trình khác cũng đã được thực hiện theo kiến trúc mới, hợp với sở thích của nhà vua như cửa Chương Đức, cửa Hiển Nhơn, điện Kiến Trung, cung An Định…, đánh dấu một giai đoạn kiến trúc mới lạ trong nền kiến trúc mỹ thuật của Việt Nam
Thông tin du lịch lăng vua Khải Định
Lăng Khải Định là một công trình nghệ thuật đẹp, măng một phong cách hiện đại dưới thời Nguyễn. Đây là điểm đến luôn có trong các tour du lịch Huế. Vì vậy, nếu lên lịch trình tham quan Huế thì đừng quên lăng Khải Định nhé. Dưới đây là thông tin du lịch lăng Khải Định
Thông tin du lịch lăng vua Khải Định
- Giá vé: Người lớn: 150k; Trẻ em: 50k
- Giờ tham quan: + Mùa hè: từ 6h30 đến 17h30+ Mùa đông: từ 7h00 đến 17h00
- Khoảng cách từ trung tâm thành phố: 10km
- Phương tiện: Đường bộ
>>> Xem thêm: Tìm hiểu lịch sử các khu lăng mộ của các vua triều Nguyễn
Nguồn: THUYẾT MINH CÁC ĐIỂM THAM QUAN THỪA THIÊN HUẾ – SỞ DU LỊCH THỪA THIÊN HUẾ