Dòng họ Nguyễn có nguồn gốc từ đâu? Chín đời chúa Nguyễn bao gồm những ai? Đó là những câu hỏi được nhiều người quan tâm. Bài viết này sẽ cung cấp chi tiết, đặc biệt là về chín đời chúa Nguyễn ở đàng trong
Dòng họ Nguyễn
Thủy tổ của dòng họ Nguyễn là ông Nguyễn Bặc, ông là một danh tướng đời nhà Đinh đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Dưới thời nhà Lê, nhà Mạc nổi lên truy sát con cháu vua Lê. Nguyễn Kim (Nguyễn Cam) là một võ tướng dưới thời nhà Hậu Lê có công khôi phục nhà Lê, mở ra thời kỳ Lê Trung Hưng. Ngài được xem là tổ tiên của họ Nguyễn Phúc ở miền Nam, khai sáng ra hệ thứ nhất trong Nguyễn Phúc Tộc. Sau được truy tôn là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế.
Chín đời chúa Nguyễn
1. CHÚA TIÊN NGUYỄN HOÀNG (1558 – 1613)
Ông là con thứ hai của Nguyễn Kim (người có công dựng ra Nam triều). Ông sinh vào tháng 08 năm Ất Dậu (1525). Thân mẫu người họ Nguyễn (con gái của quan Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân thự vệ sự triều Lê), sau được truy tôn là Tĩnh Hoàng hậu.
Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), đến tháng 11 năm Canh Ngọ (1570) thì kiêm quản cả xứ Quảng Nam thay cho Nguyễn Bá Quýnh. Tháng 05 năm Quý Tỵ (1593) được phong làm Thái úy, Đoan Quốc Công. Chúa Nguyễn Hoàng ở ngôi chúa được 55 năm, dân thường gọi là chúa Tiên, mất vào tháng 06 năm Quý Sửu (1613), thọ 88 tuổi. Sau được truy tôn làm Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế. Trong thời gian ở ngôi, Nguyễn Hoàng đã cho quân đánh Chiêm Thành, mở rộng biên cương lãnh thổ đến khu vực tỉnh Phú Yên ngày nay. Trận đánh này xảy ra năm Tân Hợi (1611).
2. CHÚA SÃI NGUYỄN PHÚC NGUYÊN (1613 – 1635)
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng. Ông sinh vào tháng 07 năm Quý Hợi (1563). Thân mẫu người họ Nguyễn, sau được truy tôn là Gia Dũ Hoàng hậu. Năm Nhâm Dần (1602) được làm trấn thủ Quảng Nam. Nối nghiệp chúa từ tháng 06 năm Quý Sửu (1613), xưng là Tiết chế Thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái bảo, tước Thụy Quận Công. Ở ngôi chúa 22 năm, dân thường gọi là chúa Phật hay chúa Sãi, mất vào tháng 10 năm Ất Hợi (1635), thọ 72 tuổi. Sau được truy tôn là Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế.
3. CHÚA THƯỢNG NGUYỄN PHÚC LAN (1635 – 1648)
Chúa Nguyễn Phúc Lan là con thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông sinh vào tháng 07 năm Tân Sửu (1601).Thân mẫu người họ Nguyễn, sau được truy tôn là Hiểu Văn Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 10 năm Ất Hợi (1635), dân thường gọi là chúa Thượng, ở ngôi chúa 13 năm, mất vào tháng 02 năm Mậu Tý (1648), thọ 47 tuổi. Sau được truy tôn là Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng đế.
4. CHÚA HIỀN NGUYỄN PHÚC TẦN (1648 – 1687)
Chúa Nguyễn Phúc Tân là con thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Lan. Ông sinh vào tháng 06 năm Canh Thân (1620). Thân mẫu người họ Đoàn, sau được truy tôn là Hiếu Chiêu Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 02 năm Mậu Tý (1648), xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái Bảo, tước Dũng Quốc Công, dân thường gọi là chúa Hiền. Ở ngôi chúa 39 năm, mất vào tháng 03 năm Đinh Mão (1687), thọ 67 tuổi. Sau được truy tôn là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế.
5. CHÚA NGHĨA NGUYỄN PHÚC TRĂN (1687 – 1691)
Chúa Nguyễn Phúc Trăn là con thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Tần. Ông sinh vào tháng 12 năm Kỷ Sửu (1649).Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Triết Hoàng hậu. Nối nghiệp Chúa từ tháng 03 năm Đinh Mão (1687), xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái phó, tước Hoàng Quốc Công dân thường gọi là chúa Nghĩa. Ở ngôi chúa 04 năm, mất vào tháng 01 năm Tân Mùi (1691), thọ 42 tuổi. Sau được truy tôn là Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng đế.
6. CHÚA QUỐC NGUYỄN PHÚC CHU (1691 – 1725)
Chúa Nguyễn Phúc Chu là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Trăn. Ông sinh vào tháng 05 năm Ất Mão (1675). Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Nghĩa Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 01 năm Tân Mùi (1691), xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái bảo, tước Tộ Quốc Công, dân thường gọi là Quốc chúa. Ở ngôi chúa 34 năm, mất vào tháng 04 năm Ất Tỵ (1725), thọ 50 tuổi. Sau được truy tôn là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế. Trong thời gian ở ngôi, Nguyễn Phúc Chu có 03 lần mở rộng lãnh thổ.
Lần thứ nhất: lấy hết phần đất còn lại của Chiêm Thành, năm Quý Dậu (1693) biên giới cực Nam của xứ Đàng Trong, từ đó kéo dài đến Bình Thuận ngày nay.
Lần thứ hai: lấy một phần đất Chân Lạp tiếp giáp với xứ Đàng Trong, tương ứng với miền Đông Nam bộ ngày nay, năm Mậu Dần (1698).
Lần thứ ba: nhận đất xứ Hà Tiên do Mạc Cửu dâng. Đất này tương ứng với toàn bộ tỉnh Kiên Giang, tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và một phần nhỏ của tỉnh An Giang và tỉnh Sóc Trăng ngày nay, năm Giáp Ngọ (1714).
7. NINH VƯƠNG NGUYỄN PHÚC CHÚ (1725 – 1738)
Chúa Nguyễn Phúc Chú là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông sinh vào tháng 12 năm Bính Tý (1696). Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Minh Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 04 năm Ất Tỵ (1725), xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái phó, tước Đỉnh Quốc Công, dân thường gọi là Ninh Vương. Ở ngôi chúa 13 năm, mất vào tháng 04 năm Mậu Ngọ (1738), thọ 42 tuổi. Sau được truy tôn là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế.
8. VŨ VƯƠNG NGUYỄN PHÚC KHOÁT (1738 – 1765)
Chúa Nguyễn Phúc Khoát là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chú. Ông sinh vào tháng 08 năm Giáp Ngọ (1714). Thân mẫu người họ Trương, sau được truy tôn là Hiếu Ninh Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 04 năm Mậu Ngọ (1738), xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh, Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, chức Thái Bảo, tước Hiểu Quận Công, dân thường gọi là Võ Vương. Ở ngôi chúa 27 năm, mất tháng 04 năm Ất Dậu (1765), thọ 51 tuổi. Sau được truy tôn là Thế Tông Hiếu Võ Hoàng đế. Trong thời gian ở ngôi chúa, Nguyễn Phúc Khoát đã giúp Nặc Tôn lên ngôi vua Chân Lạp. Đáp lại Nặc Tôn đã cắt dâng miền đất nằm giữa Hà Tiên với miền Đông Nam bộ ngày nay cho chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ngoài ra, Nặc Tôn còn cắt tặng riêng cho Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu, người chỉ huy quân của chúa Nguyễn giúp Nặc Tôn) 5 châu nữa. Cả 5 châu đó, triều Nguyễn đã trả lại cho Chân Lạp vào năm đầu đời Tự Đức (1848).
9. ĐỊNH VƯƠNG NGUYỄN PHÚC THUẦN (1765 – 1777)
Chúa Nguyễn Phúc Thuần là con thứ 16 của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh vào tháng 11 năm Giáp Tuất (1754). Thân mẫu người họ Nguyễn, sau đi tu, được truy tôn là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư. Nối nghiệp Chúa từ tháng 05 năm Ất Dậu (1765), ở ngôi chúa 12 năm, mất vào tháng 09 năm Đinh Dậu (1777), khi bị Tây Sơn đánh đuổi ở Gia Định.
>>> Xem thêm: Lịch sử 13 vị vua triều đại nhà Nguyễn