Làng Cổ Lão – Quá trình khai thiết và hệ thống thiết chế văn hóa

Làng Cổ Lão

1. Lời dẫn

Nam tiến (The March to the South) là một thuật ngữ được dùng khá phổ biến, chỉ sự mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương Nam. Khởi nguồn từ những đợt biến động về chính trị, như một “dòng sông chảy, tuy chậm nhưng liên tục”, quá trình Nam tiến diễn ra miệt mài với hơn 7 thế kỷ khẩn hoang mở đất. Mồ hôi và nước mắt của biết bao thế hệ lưu dân Việt đã thấm ướt trên từng tấc đất, để đổi lấy một hình hài nước Việt hôm nay. Có lẽ “con đường Thiên lý/con đường Cái quan” là hình ảnh hàm chứa đầy đủ nhất về quá trình di dân lập làng: Cương vực lãnh thổ Đại Việt được xác lập đến đâu thì trục lộ này nối dài đến đó. Con đường Thiên lý Bắc – Nam đó là cách gọi mang tính chất ước lệ, bởi độ dài của nó, không chỉ tính bằng đơn vị số đếm.

Làng Cổ Lão
Làng Cổ Lão

2. Vài nét về quá trình tụ cư lập làng ở Cổ Lão

2.1. Khái quát về vùng đất Thuận Hóa trong diễn trình Nam tiến

Theo ghi chép của các sử quan nhà Nguyễn, vùng đất Thừa Thiên Huế thời Hán thuộc quận Nhật Nam (quận Nhật Nam là 1 trong 3 quận của bộ Giao Chỉ, bao gồm 5 huyện: Tây Quyển, Tỵ Cảnh, Chu Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm). Sau sự kiện diễn ra vào năm 192, đánh dấu sự ra đời nhà nước Lâm Ấp, dải đất từ đèo Ngang trở vào được xác định thuộc lãnh thổ vương quốc Champa. Năm 1069, Champa cắt phần đất Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh cho Đại Việt. Đến năm 1306, hai châu Ô – Lý/Ulik chính thức được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, sau cuộc hôn nhân giữa Chế Mân (Jaya Shimhavarman III) với công chúa Huyền Trân. Năm sau (1307), Đoàn Nhữ Hài vâng mệnh phủ dụ, đổi tên Ô – Lý thành hai châu Thuận Hóa. Kể từ đây công cuộc di dân của người Việt diễn ra một cách rầm rộ.

Sau ngày bình Chiêm toàn thắng (1471), nhân đó vua Lê Thánh Tông lập thêm thừa tuyên Quảng Nam, đến tháng 4, năm Canh Tuất, Hồng Đức thứ 21 (24/04/1490), “định bản đồ thiên hạ làm 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường”.

Xét trong Thiên Nam dư hạ tập thì dưới thời Lê Thánh Tông, Thuận Hóa thừa tuyên quản 2 phủ (Tân Bình và Triệu Phong), 8 huyện và 4 châu. Trong đó phủ Triệu Phong gồm có 6 huyện và 2 châu. Vùng đất Thừa Thiên Huế ngày nay thuộc ba huyện với số lượng tổng, làng xã như sau: huyện Kim Trà 8 tổng 71 xã, huyện Đan Điền 8 tổng 65 xã, huyện Tư Vang 6 tổng 52 xã.

Gần 248 năm sau ngày “sang tên đổi chủ”, Thuận Hóa trở thành điểm tiếp nhận và phân phối lực lượng di dân vào Nam. Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An cho biết tổng số làng xã Thừa Thiên Huế như sau: huyện Kim Trà 63 làng, huyện Đan Điền 54 làng, huyện Tư Vinh 69 làng’. 

Năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng. Theo ông trong đợt đi này đông đảo là dân binh đồng hương, nghĩa dũng miền Thanh – Nghệ. Từ việc ra đi để kiếm tìm một vùng đất mới, dung thân, lập nghiệp cho cả dòng họ trước những áp lực chính trị đang diễn ra ở Thăng Long, đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử khẩn hoang xứ Đàng Trong. Trong bối cảnh đó, vùng đất Thừa Thiên Huế nói riêng được bổ sung một số lượng lớn cư dân vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ.

Dưới thời các chúa Nguyễn (1558 – 1774) cơ bản làng xã xứ Huế đã phát triển ổn định về mọi mặt. Đến thời kỳ này, xứ Thuận Hóa quản 2 phủ, 8 huyện, 1 châu, 628 xã, 51 thôn, 169 phường 8 giáp. Trong đó, phủ Triệu Phong gồm 5 huyện, tổng cộng 405 xã, 25 thôn và 115 phường, 8 giáp, 4 sách. Riêng vùng đất Thừa Thiên Huế ngày nay, thuộc phạm vi của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền, với tất cả 23 tổng, 234 xã, 23 thôn, 77 phường 1 giáp, 1 châu và 3 sách. Qua những thống kê về danh sách làng xã, phần nào phản ánh quá trình tụ cư liên tục và không ngừng mở rộng không gian cư trú. Sự xuất hiện tên tuổi các làng thực chất là kết quả của việc “hành chính hóa” các đơn vị tụ cư. Có thể nói, phương thức khai phá, “dân làng đi trước, nhà nước theo sau” được xem là điển hình trong diễn trình Nam tiến của dân tộc Việt.

2.2. Quá trình tụ cư lập làng ở Cổ Lão

Nằm về phía hữu ngạn sông Bồ, Cổ Lão là một ngôi làng thuần nông, ngày nay thuộc xã Hương Toàn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11,5km về phía bắc.

Cổ Lão với tứ cận, tây giáp Liễu Cốc thượng, Dương Sơn; nam giáp Liễu Cốc hạ – thượng; bắc giáp Dương Sơn và đông giáp với sông Bồ. Đối ngạn với Cổ Lão là các làng: Lương Cổ, La Vân thượng, Phước Yên. Cũng như nhiều làng xã khác ở vùng Huế, quá trình tụ cư lập nghiệp, khai thiết xã hiệu của cư dân Cổ Lão là kết quả của các đợt di dân, mở đất về phương Nam.

Ra đi từ cái nôi đất Bắc, người Việt mang nặng mối tình thủy chung với cây lúa nước. Men theo sông suối, những thế hệ di dân đầu tiên nhanh chóng chiếm cứ các dải đất phù sa màu mỡ. Một học giả người Pháp, ông Paul Mus hoàn toàn có lý khi đưa ra nhận định, “người Việt đi dọc theo bán đảo Đông Dương như một cơn lũ, mang theo lúa nước và xác lập bất cứ đâu có thể thiết lập làng xóm”.

Làng Cổ Lão đồng tôn vinh nhị vị họ Phan là khai canh và đồng tứ tộc hậu khai khẩn. Đây chính là những tộc họ đặt chân đến đầu tiên, có công lao tịch điền lập thổ, dựng ấp mở làng. Căn cứ bản “Tế văn nghi tiết” và Thần vị được phối hưởng tại đình, thứ tự của các tộc họ như sau:

  •  [1] Bổn thổ Tiền Khai canh Lưỡng hầu Phan Đình Dương, Phan Phước Đức nhị vị tôn thần
  • [2] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Phạm Hữu tôn thần
  • [3] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Phạm Văn tôn thần
  • [4]Bổn thổ Hậu Khai khẩn Hoàng Tăng tôn thần
  • [5] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Hoàng Văn tôn thần.

Theo lời kể của các bậc cao niên và khảo cứu bản gia phổ họ Phan thì hai ngài khai canh vốn là hai cha con. Ngài Phan Đình Dương sau ngày di cư vào Nam, buổi đầu sinh sống lập nghiệp tại vùng đất thuộc thôn Lại Bằng (nay là phường Hương Vân, thị xã Hương Trà). Bản gia Phả họ Hoàng Tăng cho biết vị thủy tổ họ Hoàng Tăng nguyên quán xứ Thanh, “theo chúa Nguyễn Hoàng rời quê hương Thanh Hóa, đi tìm một vùng đất trù phú với mong ước con cháu sum vầy, phát đạt. Mới đầu các ngài dừng chân ở châu thổ sông Bồ. Do vậy mà các ngài thủy tổ, á tổ và các đời kế tiếp đã chọn vùng đất Văn Xá trung, Liễu Cốc thượng, Long Khê, Lại Bằng làm nơi an nghỉ vĩnh hằng”.

Tại đây, các ngài khẩn hoang được hơn 12 mẫu ruộng, tục gọi là xứ “Long Vàng Đôi Lũng”. Sau đó, ngài Phan Đình Dương cùng người con của mình là Phan Phước Đức men theo ven sông Bồ, đi về hướng đông nam, tiếp tục khai phá các xứ: Tả – Hữu Khê , Binh Tẩu , Đội Thượng, Đội Trung, Đội Hạ, Gia Cối, Cồn Quán (giáp ranh với các làng Xuân Đài, Liễu Cốc Hạ), Cồn Nổi (giáp với Dương Sơn). Những địa danh “xứ đất” ở làng Cổ Lão ít nhiều giúp chúng ta liên tưởng đến các vị trí đồn trú binh lính, hay những địa điểm thao diễn, luyện tập của quân đội. Hiện nay ở một số làng xã vùng ngoại vi của phủ Phước Yên, với bán kính khoảng 3,5km trở lại, chúng ta dễ dàng bắt gặp những dấu tích gắn liền với phủ chúa một thời.

Dải đất ven sông Bồ kể từ phủ Phước Yên kéo dài về đến Hương Cần, Vân Cù… có dạng địa hình chuyển tiếp từ lớp phù sa cổ sang đồng bằng phù sa trẻ. Theo thời gian, do tác động dòng chảy, quá trình bồi tích, lắng đọng phù sa đã mở rộng các bãi nổi ven sông. Từ kết quả khảo sát, có thể nhận thấy quá trình tụ cư, canh phá đất đai của người dân ở Cổ Lão gắn liền với diễn tiến địa lý, điều này phản ánh rõ nét nhất qua việc hình thành khu vực Trung Giang xứ.

Trung Giang xứ theo lý giải người dân là “vùng đất nằm giữa hai con sông”, là địa danh được nhắc đến rất nhiều trong các địa bạ cho đến đơn từ khiếu nại, tranh tụng đất đai làng Cổ Lão.

Xứ Trung Giang trước đó rất có thể là dòng sông nhỏ, về sau bị bồi lấp, dần trở thành bãi bồi màu mỡ phù sa. Toàn bộ diện tích ở đây thuộc quyền sở hữu và canh tác của 5 họ khai canh, khai khẩn. Hiện nay dấu vết của nó chính là hệ thống khe nước dẫn thủy từ Liễu Cốc thượng đổ ra sông Bồ. Đây là ranh giới phân chia giữa làng Liễu Cốc hạ với Cổ Lão.

Trong quá trình điền dã ở một số làng xã ven sông Đồ, chúng tôi nhận thấy có một đặc điểm rất thú vị về sự dịch chuyển các điểm tụ cư ban đầu. Theo đó, điểm dừng chân sau ngày vào Nam của ngài khai canh ở La Vân là đài đất ở làng Hiền Sỹ, thủy tổ các họ ở Hà Cảng cũng chọn còn Văn Trân (ở làng Văn Xá hiện nay) để khai phá. Rất có thể việc di chuyển này là quá trình kiếm tìm những vùng đất hội tụ đầy đủ ưu thế về sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa, địa bàn tụ cư cuối cùng của các tộc họ nói trên về sau đều di chuyển gần hơn với phủ Phước Yên và tất cả các làng như La Vân, Hà Cảng, Cổ Lão…, đều nằm kề cận với lỵ sở của chúa Nguyễn.

Sau một thời gian dài khẩn hoang lập ấp, với sự ổn định về cơ cấu tổ chức, đảm bảo định điền, Cổ Lão chính thức góp mặt trên bản đồ xứ Thuận Hóa. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cho biết Cổ Lão là một trong 9 xã thuộc tổng Đông Lâm, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong. Trong bản đồ Quảng Thuận đạo sử tập do Nguyễn Huy Quýnh vẽ vào năm 1785 tiếp tục xác nhận về sự hiện diện của làng Cổ Lão trên bản đồ làng xã xứ Đàng Trong. Như vậy, danh xưng Cổ Lão xuất hiện với tư cách của một đơn vị hành chính là vào khoảng cuối của thế kỷ XVIII.

Năm Gia Long thứ 5 (1806), quy định là dinh trực lệ (Quảng Đức và Quảng Trị đều bỏ thêm hai chữ trực lệ đứng trên), thuộc về kinh sư. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi trực hệ Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, bỏ hai chữ trực lệ. Bấy giờ dinh Quảng Đức có tất cả là 3 huyện, với gồm 20 tổng và 354 xã, thôn, phường, trang, ấp. Trong đó huyện Hương Trà có 5 tổng, với 103 xã, thôn, phường, ấp, huyện Quảng Điền có 9 tổng, với 89 xã, thôn, phường, ấp và huyện Phú Vang có 6 tổng, với 162 xã, thôn, ấp, phường, sách. Đến thời Minh Mạng, cụ thể là vào năm 1835, trên cơ sở đất đai của ba huyện cũ, phân tách, lập thêm ba huyện mới là: Phong Điền, Hương Thủy và Phú Lộc.

Dưới tác động của các đợt cải cách hành chính do chính quyền trung ương ban hành, sang đến thời nhà Nguyễn địa giới xã Cổ Lão được tách khỏi quyền quản hạt bởi huyện Quảng Điền và từ đó trở đi chịu sự thống thuộc huyện Hương Trà.

Bước đầu khảo sát tư liệu ở Cổ Lão, thì đầu thời Gia Long, trong Văn bản mua bán ruộng đất được lập vào năm Gia Long thứ 9 (1810) cho biết xã Cổ Lão thuộc tổng Hương Cần, huyện Hương Trà . Trong sách Đồng Khánh địa dư chí, thì xã Cổ Lão là 1 trong 9 xã, giáp (xã Hương Cần, Dương Sơn, Xuân Đài, Vân Cù, An Thuận, Thanh Lương, Tiên Lộc và giáp Tây xã Triều Sơn, thuộc tổng Hương Cần, huyện Hương Trà. Đến thời vua Thành Thái (1889 – 1907), Khải Định (1916 – 1925) cơ bản địa giới của Cổ Lão vẫn không thay đổi.

Làng xã ở vùng Huế có thể khác nhau về thời điểm tụ cư song đó là kết quả của quá trình khai phá mở đất, gắn liền với công lao của những tộc họ khai canh, khai khẩn. So với nhiều làng xã khác ở vùng Huế, tuổi đời của làng Cổ Lão có lẽ vẫn còn khiêm tốn. Không có nhiều tư liệu để chúng ta đưa ra cụ thể mốc thời gian thành lập làng, nhưng với những cứ liệu hiện tồn, cho phép chúng ta phỏng đoán thành phần di dân tham gia vỡ đất lập làng chính là những quan binh trong đoàn quân chúa Nguyễn và những nông dân nghèo khổ phiêu dạt vào Nam. Hiện nay Cổ Lão có khoảng 206 hộ dân, gần 1.001 nhân khẩu, với tổng cộng 16 tộc họ cùng sinh sống: Phan Văn, Phạm Hữu, Phạm Văn, Hoàng Văn, Hoàng Tăng, Võ Văn, Trương Văn, Đặng Văn, Nguyễn Cửu, Nguyễn Công, Tống Văn, Phan Cảnh, Trần, Lê Văn, Dương Văn và Ngô Văn.

3. Hệ thống thiết chế văn hóa ở làng Cổ Lão

Càng tiến dần về Nam, cấu trúc làng xã truyền thống của người Việt ít nhiều thay đổi so với cố hương đất Bắc. Nếu như làng xã ở đồng bằng châu thổ Bắc bộ rạch ròi trong vấn đề ranh giới, với hệ thống lũy tre, cổng, ngõ…, được xem là những biểu tượng thiêng liêng và bền chặt của sự phân tách về địa giới giữa các làng, tổng thì khi dừng chân ở miền Trung những hình ảnh đó trở nên phai nhạt, mất hẳn vai trò vốn có. Về tổng thể, không gian cư trú, sản xuất, khu vực mộ địa và hệ thống thiết chế văn hóa được bố trí trên một mặt bằng trải rộng theo chiều Tây – Đông. Trong đó, dòng sông Bồ được xem là trục quy hoạch chủ đạo, có chức năng định hướng cho tất cả các công trình từ nhà cửa, từ đường đến hệ thống thiết chế văn hóa: đình, chùa, am miếu.

3.1. Đình làng Cổ Lão

Đình là trú sở tâm linh, trung tâm quy ngưỡng của một cộng đồng trên cùng địa vực cư trú. Trong hệ thống thiết chế văn hóa làng xã, đình làng có cấu trúc chức năng về mặt hành chính: nơi hội họp, bàn thảo các công việc làng xã, đồng thời đây là địa điểm diễn ra các hoạt động tế tự thường niên mà nổi bật nhất là hai kỳ tế: Xuân Thu nhị kỳ. Trong sách Đại Nam nhất thống chí, mục Phong tục cung cấp một thông tin cho thấy ở Kinh sư, “mỗi làng đều có ngôi đình tế theo dịp xuân, thu”.

Trên con đường liên thôn dẫn lối vào làng, đình Cổ Lão được xây dựng trên một diện tích đất khá bằng phẳng, nằm ngay đầu làng, giáp ranh với con hói nhỏ, phân chia ranh giới làng Cổ Lão với Liễu Cốc hạ. Đình làng Cổ Lão tọa lạc trên thửa đất có ký hiệu: CĐK 282/1835 thuộc tấm bản đồ giải thửa số 7, tỷ lệ 1/2000 do Ủy ban Nhân dân xã Hương Toàn lập vào năm 1994. Tại vị trí này, chúng tôi xác định tọa độ địa lý như sau: 16°36’86” vĩ độ Bắc, 107°31’59” kinh độ Đông.

Làng Cổ Lão
Đình làng Cổ Lão

Chính diện đình Cổ Lão quay mặt về hướng đông, lấy dòng sông Bồ làm minh đường. Bố cục của đình theo thứ tự từ ngoài vào trong bao gồm các đơn nguyên kiến trúc: Cổng, trụ biểu, bức bình phong, la thành, sân đình và ngôi chánh điện.

Làng Cổ Lão
Bình phong sau cổng tam quan đình làng Cổ Lão

Cổng đình được xây dựng dựa trên mô thức cổng Tam quan như chúng ta vẫn thường thấy ở các công trình kiến trúc dân gian vùng Huế. Tôn vinh dáng vẻ uy nghi của ngôi đại đình là 4 chiếc trụ biểu hình khối vuông, cao khoảng 4,89m, được đắp nổi các câu đối bằng chữ Hán. Tiếp đó, cách khoảng 3,1m là bức bình phong có chiều cao 2,85m, dài 3,05m, được trang trí bởi các đồ án: Long mã phù hà đồ, lưỡng long chầu nguyệt, cúc hóa long, dơi thọ và hoa lá. Sân đình có tổng chiều dài 23,5m, rộng 13,6m, với diện tích 319,6m2, nền sân được đúc bằng xi măng.

Tòa chánh điện đình làng Cổ Lão là một ngôi nhà Rường với kết cấu 3 gian, 2 chái kép, trên một khu đất có diện tích 110,50m. Gian giữa rộng 2,95m, 2 gian hai bên mỗi gian rộng 2,8m, 2 chái kép rộng 1,86m. Toàn bộ phần mái của ngôi đình được nâng đỡ bởi 36 chiếc cột gỗ khá lớn. Trong đó, cột hàng nhất (cột cái) là 8 cái, cột hàng nhì là 8 cái và cột hàng 3 có 20 cái. Cột hàng nhất mỗi cột dài 4,47m, đường kính 28cm, cột hàng nhì dài 3,51m, đường kính 25cm và cột ở hàng ba dài 2,82m, đường kính là 23cm. Kết cấu bộ sườn xây dựng theo lối “thượng trến hạ xuyên”, không có rầm thượng, thuộc loại bộ vì giao nguyên, con đội, trụ tiêu và áp quả. Toàn bộ hệ khung chịu lực: xuyên, xà, đòn tay, rui, cột, kèo đều được làm bằng gỗ trong đó gỗ kiền và mít là hai loại gỗ chủ lực.

Nội thất đình Cổ Lão, gồm có 3 án thờ, tại vị trí chính giữa là bức biển hoành đề 3 chữ: Cổ Lão Đình và dòng lạc khoản: Quý Sửu niên quý đồng cát nhật tạo, nghĩa là làm vao ngay tot cuối đông năm Quý Sửu. 

Đình Cổ Lão là nơi phụng thờ vị Thành hoàng làng, các vị Nhiên thần, Thiên thần…và đặc biệt án tả thờ các vị khai canh, khai khẩn. Hai bên hương án bày thiết tự khí, long kiệu, hai bộ lỗ bộ, gồm: thanh long đao, tàn, lọng, trường côn, chùy…Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Cổ Lão được Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xếp hạng Di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 158/QĐ – UBND ngày 20/01/20102

3.2. Chùa làng Cổ Lão

Chùa làng là một phần ký ức của những lưu dân Việt ; suốt hành trình mở đất về phương Nam. Đối với mỗi người dân Cổ Lão, chùa là trung tâm chiêm bái, ngưỡng vọng, nơi gắn kết tất cả mọi thành viên chung tay xây dựng quê hương ấm no, thuận hòa. Chúng ta không có nhiều tư liệu để xác định chắc chắn thời điểm tạo lập chùa. Nhưng có thể khẳng định rằng, thời điểm chùa làng xuất hiện, tổ chức làng xã lúc đó đã có một sự ổn định nhất định về mặt cơ cấu.

Làng Cổ Lão
Chùa làng Cổ Lão

3.2.1. Kiến trúc và thiết trí thờ tự

Chùa Cổ Lão được xây dựng trên một mặt bằng cao ráo, bằng phẳng, cạnh con đường liên thôn. Chùa tọa hướng Đông Nam, lấy nguồn Bồ giang xanh tươi phía trước mặt làm minh đường. Phía bên phải chùa là đình làng và miếu Âm hồn, tạo nên một quần thể các thiết chế văn hóa tâm linh cổ kính.

Cũng giống như nhiều ngôi chùa trên đất Huế, chùa Cổ Lão được tái thiết, trùng tu khá nhiều lần. Về tổng thể, chùa có dạng hình chữ Nhất, với các đơn nguyên kiến trúc: cổng tam quan, tiền đường, chánh điện…phân bố thành trên một trục thẳng. Tam quan của chùa được xây dựng bằng xi măng, trang trí các hoa văn cách điệu, câu đối ở các trụ được đắp nổi…, tất cả góp phần tôn vinh dáng vẻ uy nghiêm nhưng không kém phần thanh thoát, mềm mại. Bước qua khỏi cổng tam quan đó chính là nhà tiền đường. Tòa nhà này nối liền với Chánh điện, hai bên tả – hữu là lầu chuông, trống. Tiền đường chùa Cổ Lão có lẽ được trùng hưng sau này. Toàn bộ hệ thống mái lợp ngói, bờ nóc trang trí “lưỡng long triều nhật”, cổ diêm ở giữa bố trí các đồ án điển tích ngợi ca Phật pháp, cùng với tứ linh, hoa lá, sen cách điệu.

Tòa chánh điện là một ngôi nhà rường bằng gỗ, một gian hai chái kép, thượng trên hạ xuyên. Hệ khung với các cấu kiện chịu lực chính: xuyên, trến, xà, kèo, cột… đều được làm bằng gỗ, liên kết với nhau bằng mộng. Ngay tại gian chính của chánh điện là bức hoành được chạm khắc tỉ mỉ, thể hiện rõ phong cách mỹ thuật thời Nguyễn. Chính giữa hoành phi chạm 3 chữ Hán lớn theo kiểu chữ Hành: Cổ Lão tự, nét chữ ngay ngắn, cân đối. Phần lạc khoản phía bên trái: “Đồng bổn xã trùng hưng kiến phụng”, cho thấy biển hoành này được toàn thể người dân toàn xã Cổ Lão phụng cúng cùng thời điểm trùng tu chùa. Lạc khoản bên phải ghi dòng chữ: Thái tuế Giáp Tuất niên quý thu nguyệt cát nhật, nghĩa là: làm vào ngày tốt, tháng 09 năm Giáp Tuất.

Làng Cổ Lão
Tiền điện và chánh điện chùa

Bước đầu khảo sát chúng tôi nhận thấy lối thiết trí và thờ tự ở chùa Cổ Lão vừa mang đặc trưng của một ngôi chùa làng nhưng đồng thời phản ánh rõ nét dáng dấp của ngôi Niệm Phật đường. Gian chính trung được tôn trí pho tượng Phật Thích ca (được đặt trong Khám thờ bằng gỗ) uy nghi tọa trên đài sen, hai bên là gian thờ Quán Thế  Âm Bồ tát và Địa Tạng vương Bồ tát, đối diện tả – hữu là bàn thờ nhị vị Hộ pháp.  Sau cùng là hậu điện, nơi phối thờ các vị khai canh, khai khẩn và những Phật tử đã có công hộ trì Tam bảo.

Hiện nay tại nội điện vẫn đang trân tàng tòa Cửu Long, một tuyệt tác về mỹ thuật Phật giáo xứ Huế. Tòa Cửu Long là biểu tượng sinh động nhất về truyền thuyết đản sanh của Đức Phật Thích Ca. Theo đó khi Ngài đản sanh có 9 con rồng phun nước thơm để tắm cho Ngài. Tòa Cửu Long được chế tác bằng gỗ, bao gồm hai phần: thân và đế tòa. Trong đó, phần thân cao (tính từ phần trên của đế lên đến đỉnh đầu rồng): 58cm, rộng 34cm. Thân được đặt trên chiếc đế hình chữ nhật, tạo dáng theo dạng để bia, kiểu chân quỳ. Kích thước của đế, cao: 15cm, chiều ngang: 35cm và rộng 30cm. Chính giữa đế là nơi tôn trí tượng Đức Phật đản sanh, cao: 40cm. Tòa Cửu Long được tạo tác có hình vòm, đối xứng hai bên là 8 đầu rồng, phần đuôi và đầu nối kết liên hoàn với nhau bằng các dải vân mây. Phía trên cùng là đầu rồng chính, to lớn, mập mạp, dáng vẻ uy dũng’. Tòa Cửu Long ở chùa Cổ Lão được xem là một bảo vật rất có giá trị trên nhiều phương diện.

3.2.2. Về quả đại hồng chung do Phạm Hữu Tâm phụng cúng

Đại hồng chung chùa Cổ Lão hiện đang được lưu giữ tại chùa. Chuông bằng đồng, dáng thẳng đứng, thân chuông được chia làm 4 ô bằng các gờ chỉ nổi, phân cách các ô là dải hồi văn hình chữ công và hoa thị. Mỗi ô trang trí các đồ án: Long mã phù hà đồ, sen cách điệu, long hý thủy và hình ảnh chim phụng. Toàn bộ thân chuông cao: 109cm (riêng phần quai chuông cao: 33cm), đường kính miệng chuông: 52cm, dày: 4cm. Không tính 4 chữ đại tự ở 4 mặt của thân chuông, văn chuông với tổng cộng 72 chữ được bố trí ở 3 mặt, nét chữ còn khá rõ. Nội dung văn chuông khá kiệm ước về ngôn từ, chủ yếu cung cấp ngày tháng đúc chuông, trọng lượng và danh tánh, chức tước người phụng cúng. Dưới đây, chúng tôi xin cung cấp toàn bộ phần nguyên văn và bản dịch:

[Nguyên văn]

古老寺鐘

太子少保前軍都統府都統掌府事,領兵部尚書兼 都察院右都御史總督河內寧平等處地方提督軍務兼理 糧餉新福侯范有心奉鑄。秤重壹百捌拾五斤。

明命二十一年正月二十日

[Phiên âm]

Cổ Lão Tự Chung

Thái tử Thiếu bảo, Tiền quân Đô thống phủ Đô thống chưởng phủ sự, lãnh Binh Bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu Đô Ngự sử, Tổng đốc Hà Nội – Ninh Bình đẳng xứ địa phương, Đề đốc quân vụ kiêm lý lương hướng Tân Phúc hầu Phạm Hữu Tâm phụng chú. Xứng trọng nhất bách bát thập ngũ cân.

Minh Mạng nhị thập nhất niên chính nguyệt nhị thập nhật.

[Tạm dịch]

Chuông chùa Cổ Lão

Thái tử Thiếu bảo, Tiền quân Đô thống phủ Đô thống chưởng phủ sự, lãnh [chức] Thượng thư Bộ Binh, kiêm Hữu Đô Ngự sử viện Đô sát, Tổng đốc các xứ địa phương Hà Nội – Ninh Bình, Đề đốc việc quân kiêm coi lương hướng, [tước] Tân Phúc hầu Phạm Hữu Tâm phụng chú. Chuông [nặng ] 185 cân. 

Ngày 20 tháng 01, năm Minh Mạng thứ 21 [1840]

 

Qua bài văn chuông này chúng ta biết rằng, người đứng ra chú tạo và phụng cúng quả đại hồng chung chính là Tân Phúc hầu Phạm Hữu Tâm, vị võ tướng danh tiếng dưới thời vua Minh Mạng. Đối chiếu với những ghi chép của chính sử nhà Nguyễn, chúng tôi nhận thấy vào thời điểm 1839 – 1840, ông còn đảm nhận chức vụ là Hữu Đô Ngự sử viện Đô sát. Điều này góp phần bổ khuyết thêm một thông tin liên quan đến hành trạng của Phạm Hữu Tâm, mà có thể vì một lý do nào đó sử quan nhà Nguyễn không có đề cập.

Chuông chùa làng Cổ Lão là minh chứng rõ nét về sự mến mộ Phật pháp của vị tướng chinh đông dẹp bắc, đồng thời thể hiện tấm lòng của ông đối với quê hương bản quán. Hơn 179 năm tồn tại, song hành với biết bao sự đổi dời của thế cuộc, đại hồng chung vẫn đều đều ngân vang sớm hôm, như nhắc nhớ lớp lớp thế hệ con dân Cổ Lão một lòng hướng về Tam bảo.

3.3. Hoạt động tế lễ hàng năm

Trong đời sống tín ngưỡng của cư dân làng xã vùng Huế, tế tự là hoạt động diễn ra thường niên, có một vai trò rất quan trọng. Ở quy mô cấp làng, tế lễ bên cạnh sự trao truyền truyền thống tốt đẹp được những cư dân mang theo từ cố hương, thể hiện khát vọng “dân khang vật phụ”, còn góp phần gắn kết từng thành viên trong mỗi cộng đồng. Đã trở thành thông lệ, hàng năm lễ tế ở làng Cổ Lão được người dân nơi đây cử hành một cách trang trọng. Theo bản “Nghi tế văn”, lịch biểu của làng được ấn định như sau: Lễ Xuân kỳ (cầu an) được tổ chức vào ngày 4 tháng 01 âm lịch, Lễ Cô đàn (Tảo mộ) diễn ra 11, 12/01 âm lịch, Lễ Thu tế tổ chức vào ngày 11, 12/07 âm lịch, Lễ Đông chí tổ chức vào ngày 04/12 âm lịch, Lễ húy kỵ ngài khai canh diễn ra vào 04/12 âm lịch.

Bổn văn làng Cổ Lão trong phần Chánh tế văn, vào dịp Xuân Thu nhị kỳ cung cấp cho chúng ta toàn bộ hệ thống thần linh như sau: 

[1] Đại Càn Quốc Gia Nam Hải 

[2] Tam vị Oai linh Thánh Trí sung tước Lộc Đô nguyên soái kiêm tri Lưỡng lộ thượng Hộ quốc công chiếu tứ minh thiên hạ Đô đại Thành Hoàng

[3] Cao Các Quảng Độ

[4] Thiên YA Na

[5] Quan Thánh đế quân

[6] Phi Vận tướng quân

[7] Nhập nội Bình chương quân Quốc trọng sự tặng phong Thông quận công Phước Hựu an quốc hộ dân Hoằng Phước Đôn Doãn Bỉnh Quân Thế Thiện Dực vận Hòa chúng chiếu Cách Quang Trạch tôn thần;

[8] Đương Cảnh Thành Hoàng

[9] Tả Đông Chinh Thành Hoàng

[10] Hữu Đông Chinh Thành Hoàng

 [11] Đông Nam Sát Hải 

[12] Lệnh quân Hồ đại tướng

[13] Tam vị Đàn nương – Tứ đầu già cầm 

[14] Bổn thổ Thuận châu Mọi Rí

[15] Bổn thổ Phan quản lệnh, Phạm quản lệnh nhị vị tôn thần

[16] Bổn thổ Tiền Khai canh Lưỡng hầu Phan Đình Dương, Phan Phước Đức nhị vị tôn thần

[17] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Phạm Hữu tôn thần

[18] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Phạm Văn tôn thần

[19] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Hoàng Tăng tồn thần 

[20] Bổn thổ Hậu Khai khẩn Hoàng Văn tôn thần 

[21] Cai bộ Hoàng quý công tôn thần

[22] Cai bộ Tào Đằng hầu tặng Minh Nghĩa Đô úy Quản cơ thụy Tráng […] Phạm quý công tôn thần

 [23] Kỷ lục Tuấn Đức hầu Phạm quý công tôn thần 

[24] Kỷ lục Bảo Đức hầu Phạm quý công tôn thần

[25] Huấn đạo tặng Nghiêm Oai tướng quân Thống chế thụy Trung Cẩn Phạm quý công tôn thần

[26] Đặc tấn Tráng Võ tướng quân thượng trụ quốc gia tặng Tân Phước quận công thụy Trung Túc Phạm quý công tôn thần

[27] Cáo thụ Chưởng vệ lãnh Sơn Tây Đề đốc, tặng Thống chế Nghiêm Oai tướng quân, thượng hộ quốc Tân Phước Bá, thụy Trung Cẩn Phạm Quý công

[28] Cáo thụ Anh Dũng tướng quân phó Đề đốc sung Lạng Bình quân thứ, tặng Chưởng vệ Hùng Oai tướng quân, thụy Trung Phấn Phạm quý công

[29] Cáo thụ Hùng Oai tướng quân Kim Ngô vệ, Chưởng vệ, thụy Trung Phấn Phạm quý công 

[30] Mậu dần ân khoa Cử nhân, Cáo thụ Hồng Lô tự khanh, Thị độc học sỹ, thụy Đoan Cẩn Hoàng quý công 

[31] Lỗ Ban tiên sư tôn thần

[32] Tiên thánh, Tiên hiền, Tiên sư, Ngũ phương, Thổ công, Thổ phủ, Thổ chủ Táo quân, Tiền Khai canh Hậu Khai khẩn bổn thôn thập nhị tôn phái.

Thần linh ở Cổ Lão là một tập hợp đa dạng về nguồn gốc và chức năng, bao gồm cả Nhiên thần; Sơn thần; Thủy thần;  Âm thần; Dương thần; Thổ thần đất đai; Thần bản nghiệp… với đầy đủ phẩm trật: Hạ đẳng thần đến Thượng đẳng thần. Dựa Trên những tiêu chí về nguồn gốc hành trạng, chúng tôi tạm phân chia như sau:

[1] Tập hợp thần hiệu có nguồn gốc từ cố hương đất Bắc, được lưu dân Việt mang theo trong quá trình di dân lập nghiệp

[2] Hệ thống thần linh bản địa, lưu ảnh của lớp cư dân tiền trú. Về sau cùng với quá trình cộng cư, giao lưu văn hóa, dần tích hợp và hội nhập vào thần điện dân gian vùng Huế

 [3] Hệ thống thần hiệu là phúc thần, được triều đình ân ban sắc phong

[4] Tập hợp những vị thần được nội bộ làng xã tôn vinh và phụng thờ nhưng không được chuẩn hóa, thừa nhận bởi triều đình

[5] Tập hợp nhân thần là những nhà khoa bảng đỗ đạt, hoặc thành danh trên con đường võ nghiệp và các nhân vật có công lao to lớn đối với quê hương bản quán.

 

Trong hòm bộ tư liệu làng Cổ Lão được sao lục qua các đời, lưu giữ rất nhiều văn bản liên quan đến hoạt động tế tự của làng như: Hưng tác văn , Chánh tế văn, Đông chí văn, Húy nhật văn , Thượng miếu nghi . Đặc biệt trong số đó là bản Nghi đại lễ, được xem như “bản mẫu” về nghi thức tế tự hàng năm. Văn bản Nghi đại lễ dưới dạng chép tay, bằng Hán văn, trên giấy dó, khổ 18*24,5cm, trình bày rất cụ thể trình tự các bước của nghi thức tế lễ chốn hương thôn: dâng rượu, chiết trà, độc chúc, quỳ bái và phần hóa. Nghĩa là phải đảm bảo tuần tự các phần sơ hiến lễ, á hiến lễ và chung hiến lễ, với đầy đủ yêu cầu “tam tuần rượu một tuần trà” hay “tam tuần bát bái”. Nghi đại lễ ở Cổ Lão góp phần giúp chúng ta hình dung truyền thống tế tự ở các làng xã. Qua đó, dễ dàng nhận thấy những nét tương đồng về nghi thức tế lễ ở một số làng vùng Huế với triều đình nhà Nguyễn.

Dưới đây, chúng tôi xin cung cấp toàn bộ nội dung của bản Nghi đại lễ làng Cổ Lão:

  • Khai lễ: Chấp sự giả các tư kỳ sự, Củ sát tế vật , ế mao huyết Hưng , Bình thân , Nghinh thần tấn dữ , Tấn dữ , Hồi đình, An thần, Phần hương, Quỳ, Chước tửu, Nghệ vọng liệu vị, Phục vị, Tham thần cúc cung bái, tứ bái, Hưng – Bình Thân
  • Sơ hiến lễ: Chước tửu, Nghệ thần vị tiền, Bình thân , Giáng thần, Chước tửu, Tế tửu, Loại tửu, Phủ phục, Hưng – Bình Thân, Quán tẩy , Thuế cân, Nghệ hương án tiền, Giai quy, Phần hương, Thướng hương , Phủ phục, Hưng, Khởi chung cổ, Nhạc sinh cổ nhạc, Phân hiến tựu vị, Chủ bái tựu vị, Nghệ quán tẩy, tẩy sở, Nghệ thần vị tiền, Giai quy, Tế tửu, Hiến tửu, Phủ phục, Hưng – Bình thân, Phục vị, Phủ phục, Hưng, Nhị bái, Hưng – Bình thân, Phục vị
  • Á hiến lễ: Giai quỳ), Chước tửu, Giai quỳ, Phủ phục, Hưng – Bình thân, Nghệ độc chúc vị, Giai qùy, Độc chúc, Giai quỳ, Tế tửu, Hiến tửu, Phủ phục, Hưng – Bình thân, Phục vị, Phân hiến lễ, Phủ phục, Hưng – Bình thân. Tứ phúc tộ, Nghệ ẩm phước vị, Ẩm phước, Thụ tộ , Phủ phục, Phân hiến lễ, Giai quỳ, Chước tửu, Phủ phục, Hưng – Bình thân, Hiến trà, Giai quỳ, Điểm trà, Nghệ thần vị tiền, Giai quỳ, Tế tửu , Hiến tửu, Phủ phục, Hưng – Bình thân, Lục vị. Phân hiến lễ, Giai qùy, Chước tửu, Phủ phục, Hưng – Bình thân.

Chung hiến lễ: Chước tửu, Phục vị , Tư chúc giả bổng chúc , Nghệ liệu sở , Nghệ vọng liệu vị, Vọng liệu, Phần chúc, Nhị bái, Hưng – Bình thân, Tạ thần cúc cung bái, tứ bái, Hưng – Bình thân, Phân vị, Phục vị, Lễ tất.

4. Truyền thống võ nghiệp và khoa bảng làng Cổ Lão

Trải mình từ dãy Trường Sơn hùng vĩ, nguồn Bồ giang ấp ôm, bao bọc những làng quê trù phú, hun đúc nguyên khí bao đời. Dải đất ven sông Bồ là nơi núi sông quần tụ, quấn quýt lấy nhau, từ trước đến nay được xưng tụng là vùng đất địa linh, bởi nơi đây là quê hương của rất nhiều “nhân kiệt”, danh thần nổi tiếng một thời. Có thể kể đến như: Thạc Đức hầu Nguyễn Quang Tiền (làng Phò Ninh); Trần Hưng Đạt (nhạc phụ vua Gia Long, thân sinh bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu) ở Văn Xá; Phan Đình Bình (thân sinh bà Từ Minh Huệ hoàng hậu Phan Thị Điều, ông ngoại vua Thành Thái) ở làng Phú Lương. Ngoài ra, đây là nơi phát tích của không ít cự tộc nổi tiếng hiếu học, nhiều đời đỗ đạt như: họ Đặng làng Thanh Lương (tổ quán Hiền Sĩ, nhập tịch Bác Vọng), họ Thân ở An Lỗ, họ Trần Đình ở Phú Lễ hay Nguyễn Đình ở Phước Yên, họ Lê Quang ở Phú Ốc…

Tiếp nối nguồn mạch đó, truyền thống khoa bảng, võ nghiệp ở Cổ Lão liên tục được đắp bồi, để lại dấu ấn đậm nét. Dưới thời chúa Nguyễn có Đằng Long hầu Phạm Hữu Huệ, người khai mở con đường hoạn lộ ở Cổ Lão. Căn cứ vào bản Gia phả họ Phạm [Phái 3] hiện đang được trân giữ tại nhà thờ họ Phạm làng Cổ Lão thì ngài Phạm Hữu Tào là người mở ra phái 3, thuộc đời thứ hai tộc Phạm. Ngài Phạm Hữu Huệ, đời thứ 2 (đời thứ 3 họ Phạm), là người con duy nhất ông Phạm Hữu Tào. Ông làm quan trong giai đoạn chấp chính của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) và Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738). Theo Đại Nam thực lục [Tiền biên], tháng 05 năm 1710, ông giữ chức “Cai án Phạm Hữu Huệ làm Cai bạ dinh Quảng Nam”, ông mất ngày 13.07, mộ táng tại làng Phú Ốc (phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). Sang thời Nguyễn, Cổ Lão có ông Hoàng Tăng Thiện, Ngự y triều vua Minh Mạng rồi Hoàng Tăng Cự, đỗ Cử nhân Ân khoa năm Mậu Dần, Tự Đức 31 (1878) tại trường thi Thừa Thiên, từng giữ chức Thị độc Nội các. Nhưng có lẽ, nổi bật nhất trong số đó không ai khác chính là danh tướng Phạm Hữu Tâm.

Phạm Hữu Tâm sinh năm 1779 tại Cổ Lão (nay là xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống khoa cử, võ nghiệp. Trong sách Đại Nam liệt truyện [Chính biên, Nhị tập, Quyển 15] cho biết: Phạm Hữu Tâm, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, cháu xa của Cai bạ tào Đằng Long hầu Phạm Hữu Huệ, ông là Hữu Ứng, làm quan Ký lục doanh Bình Thuận, cha là Hữu Hòa làm Huấn đạo.

Theo gia phả họ Phạm, thì Phạm Hữu Hòa là đời thứ 4, ông có hai bà vợ, đó là chánh thất Nguyễn Thị Của, con gái quan Ngự y Nguyễn Kim Lân (Quảng Nam) và bà thứ thất Trần Thị Lang. Cụ Phạm Hữu Tâm là người con thứ 4 (cụ Hòa sinh hạ tất cả 9 người con) của ông Phạm Hữu Hòa với bà Nguyễn Thị Của. Trong bản gia phả không cho biết cụ Tâm sinh năm nào, tuy nhiên căn cứ trên tuổi thọ của ông (ông mất ngày 21 tháng 06 năm 1842, hưởng thọ 63 tuổi), cho phép chúng ta phỏng đoán năm 1779, chính là năm sinh của Phạm Hữu Tâm.

Đường làm quan của Phạm Hữu Tâm khởi đầu dưới thời Gia Long, tuy nhiên công trạng của ông lại rực rỡ, hiển đạt nhất là dưới triều vua Minh Mạng (1820 – 1841). Tra cứu các bộ sử được biên soạn dưới thời Nguyễn, như: Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều chánh biên toát yếu, Ngự chế văn, dễ dàng nhận thấy thông tin về cuộc đời của Phạm Hữu Tâm được ghi chép khá tường tận. Riêng bộ biên niên sử Đại Nam thực lục, Chính biên đã có 110 đoạn nhắc đến tên ông, cho thấy tầm ảnh hưởng và phạm vi hoạt động, xử lý công việc của ông khá đa diện.

Năm Đinh Tỵ (1797) ông đem lòng ứng nghĩa, quy phục Nguyễn Vương [Nguyễn Phúc Ánh]. Sau ngày đánh bại Tây Sơn, thu phục giang sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, định đô tại Huế. Nhờ công lao phò tá trong thời gian Nguyễn Vương mưu nghiệp phục hưng, tái chiếm Phú Xuân, nên chuẩn cho ông làm Khâm sai Cai cơ ở cơ Tả Thắng, nhưng do “can khoản” nên bị bãi về, sau theo nội quân sai vát.

Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) ông được giao nhiệm vụ hộ đưa lương của quân đến quân trường ở Văn Bàn, Thủy Vĩ (hai địa danh này nay thuộc tỉnh Lào Cai), giữa đường gặp lúc giặc Man, “Hữu Tâm tức thì đốc suất lính và dõng đánh lui quân Man”, nhân đó vua Minh Mạng ban khen, thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ ở cơ Hiệu Thuận, rồi sau đó (1829) điều chuyển sang Phó quản cơ thự Phó vệ úy vệ Lạc Dũng”. Tháng sáu năm Canh Dần (1830), chuẩn cho ông làm Phó vệ ủy vệ Lạc Dũng, đến tháng 11 cùng năm, thăng làm Phó vệ ủy ban trực Trung quân Thần Sách.

Vào năm Minh Mạng thứ 12 (1831), ở Quảng Nam, “ác Man lén xuống nguồn Chiên Đàn giết hại nhân dân, đốt nhà, cướp của rồi bỏ đi” nên triều đình phái ông cùng với Nguyễn Văn Lượng đến hai đài là Điện Hải và An Hải để chia phái biến binh phòng giữ. Tháng sáu năm sau (1832), Trấn thủ Biên Hòa lúc này là Phạm Phú Chung mất, ông được bổ dụng làm Trấn thủ Biên Hòa. Nhưng đến tháng 10 năm đó, “đổi bổ Trấn thủ Biên Hòa là Phạm Hữu Tâm làm Vệ ủy vệ ban trực tả, dinh Thần Sách”, coi quản vệ binh, đóng giữ hai pháo đài có vai trò rất quan trọng ở ven biển Đà Nẵng – Quảng Nam là Điện Hải và An Hải. Tháng 06 năm 1833, hợp sức đem theo vệ binh, pháo thủ, thủy quân trên 27 chiến thuyền cùng với đạn dược chở đến của biển Vĩnh Long để vây đánh thành Phiên An. 

Năm Minh Mạng thứ 15 (1833), cho đóng thuyền Hải Yến hiệu Nhất, hiệu Nhị, sai phái ông trông coi việc này. 

Năm 1834 thăng chuyển ông làm Thống chế hậu dinh Thần sách kiêm quản ấn triện Thủy quân, rồi Tham tán đại thần (08/1834). Sau trận chiến ở Gia Định, triều đình gia phong ông là Tân Phúc nam.

Phải thừa nhận rằng, vua Minh Mạng là người hoàn thành xuất sắc toàn bộ những dự định, kế hoạch đang còn dang dở của vị vua tiền nhiệm. Dưới thời của ông, với việc cải cách hàng loạt chính sách về nội trị, ngoại giao, chỉnh đốn võ bị, luật pháp, kiện toàn bộ máy hành chính, chuẩn hóa hệ thống quan giai, điển chế hóa lễ nghi tế tự…cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua thứ hai vương triều Nguyễn. Tuy vậy, trong giai đoạn trị vì của ông, vấn đề an ninh, quốc phòng thường xuyên trong tình trạng bất ổn, nhiều cuộc nổi dậy ở vùng biên giới, sự chống đối của một số thành phần tỏ ra bất mãn hay nhiều vụ gây hấn của các nước lân bang đã tạo ra sức ép không hề nhỏ.

Năm 1834, quân Xiêm huy động một lực lượng lớn quân đội tiến đánh dọc sông Tiền. Trước đó, tháng 11 năm Quý Tỵ (1833), toàn bộ lực lượng của Xiêm đã bị quan quân triều Nguyễn chặn đánh phải rút lui. Theo ghi chép của Đại Nam thực lục và Quốc triều chính biên toát yếu, Xiêm chia thành 5 cánh quân liên tục quấy phá dọc biên giới, âm mưu tiến sâu vào lãnh thổ Đại Nam. Cánh thứ nhất theo đường bộ tiến đánh Trấn Ninh, cánh thứ hai đánh vào đất Cam Lộ (Quảng Trị), cánh quân thứ ba đánh vào Nghệ An, hai cánh quân chủ lực còn lại đánh vào vùng Hà Tiên (dưới sự chỉ đạo của tướng Somdet Chao Phraya Borom Maha Prayurawongse (1788-1855), sử quan nhà Nguyễn gọi ông là Phi Nhã Phật Lăng và một cánh đi dọc sông Mê Kông xuống Châu Đốc (An Giang) do vị tướng Chao Phraya Bodinthara Decha chỉ huy (ông tên thật là Sing Singhaseni, hay còn gọi là Chao Phraya Bodin. Sử quan nhà Nguyễn gọi ông là Phi Nhã Chất Tri.

Hàng loạt các tấu thư quan lại địa phương dồn dập gửi về Kinh đô, vua Minh Mạng cho huy động số lượng lớn quân lính cùng với chiến thuyền trực chỉ Gia Định. Tháng giêng năm 1834, quân Xiêm dẫn hơn 100 binh thuyền từ Thuận Cảng xuống, dàn ngang giữa dòng sông. Phạm Hữu Tâm lúc này là Quản vệ giữ đồn cho quân cự chiến, đốc binh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, chém được tên đại đầu mục giặc là Phi Nhã Khổ Lạc, quân giặc chết nhiều, buộc chúng phải rút lui. Nhận được tin thắng lợi ở An Giang, vua Minh Mạng hết sức vui mừng, ban thưởng cho quân sĩ, riêng Phạm Hữu Tâm thưởng cho 1 đồng kim tiền Phi Long nhỏ và 5 đồng ngân tiền lớn, thăng làm Chưởng cơ. Trận chiến Thuận Cảng, Cổ Hủ mang tầm chiến lược quan trọng, với chiến thắng trên sông Cổ Hủ đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch xâm lấn nước ta của quân Xiêm. Nhà văn Sơn Nam đã có lý khi cho rằng “nếu ta không ngăn được, giặc sẽ  xuống Sa Đéc rồi Rạch Gầm, Mỹ Tho”, dần dần tiến sâu hơn vào vùng Tây Nam bộ, sau đó là Gia Định. Trong trận chiến này, Phạm Hữu Tâm đã góp công lớn ngăn chặn bước chân xâm lược, làm thất bại hoàn toàn ý đồ của quân Xiêm, đồng thời ghi tên mình vào trang sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt.

Sau ngày hồi Kinh, vua Minh Mạng hết lời ban khen. Đến tháng 06 năm 1835, Thống chế hậu dinh Thần sách Phạm Hữu Tâm sung Tham tán làm thự Thảo nghịch Hữu tướng quân, đến (10/1835) bổ sai Thống chế Hậu dinh Phạm Hữu Tâm làm Thống chế dinh Thần cơ, kiêm lĩnh ấn triện Trung dinh Thần sách.  Tiếp đó, tháng 11 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng xuống dụ khen ngợi Thống chế dinh Thần Cơ Tân Phúc bá, do có nhiều chiến tích, từng trải trận mạc, đặc biệt ân chuẩn cho gia hàm Thái tử Thiếu bảo, nhận quyền giữ ấn triện Tiền quân, kiêm quản các lính được tập ấm Hoa danh và Giáo dưỡng. Năm 1836, “thăng Thống chế dinh Thần Cơ Phạm Hữu Tâm lên thự Đô thống, vẫn tạm giữ ấn triện Tiền quân, kiêm quản những lính tập ấm Hoa danh, Giáo dưỡng, kiêm lĩnh án triện Thống chế dinh Thần cơ”. 

Cùng năm đó, ông chịu trách nhiệm xây đắp, sửa sang hai bờ phía Đông cầu Ngự Hà, đào vét lòng sông từ Đông Thành thủy quan đến Tây Thành thủy quan, chạy dài đến khu vực cầu Bạch Hổ. Đến tháng 2 năm 1836 chuẩn y thăng thự Đô thống quyền Chưởng Tiền quân là Phạm Hữu Tâm kiêm coi Tào chính, rồi chuẩn thăng Đô thống dinh Thần cơ (4/1836).

Mùa hạ, tháng 4 năm 1836, triều đình tiến hành ban sách phong truy tặng bà nguyên phối là Chiêu Nghi Hồ thị làm Thần phi, nhằm tỏ rõ thánh ân, sai “chưởng Tiền quân Phạm Hữu Tâm sung làm Chánh sứ, Thượng Thư bộ Lễ Phan Huy Thực làm phó sứ, cầm cờ tiết, đến đền thờ làm lễ tuyên phong”. Tháng 7 năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng đi tuần du Quảng Trị, xem xét chính sự, biệt sai Đô thống Tân Phúc bá làm Hành doanh đại thần. Trong thời gian kiêm quản Tào chính ông thường xuyên đề xuất cải tổ biên chế các đội thuộc Thủy vệ, tổ chức sửa chữa, đóng tàu thuyền nhằm huy động nhân vật lực, tăng cường sức mạnh cho quân đội, rồi sau đó ông được điều sang Tuần tra Vũ khố (11/1836).

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) chuẩn y việc xây dựng điện Phụng Tiên, sai Đô thống Phạm Hữu Tâm trông coi. Ngoài ông còn kiêm nhiệm lo liệu việc sửa xây mặt trong phía tiền hữu thành ở Kinh Sư, xây đắp vở phía tây Hộ thành hàm bắc cầu ở bến phố Đông Hội. Nhân tiết Thanh minh, tháng ba (1837), sau khi làm lễ cáo yết lăng Thiên Thụ (lăng Gia Long), vua Minh Mạng thân hành dạo chơi suối nóng, đóng lại ở hành cung Tả Trạch.  Vì có công hộ dẫn ông được gia thưởng kỷ lục đều một thứ. Tiếp đó, ông giữ chức Hành doanh đại thần, họ tống vua Minh Mạng tuần du Quảng Nam, tham gia tổ chức thao diễn thủy binh, duyệt binh, kiểm kê khí giới, Giám thí đại thần, sát hạch binh lính, giám sát phủ Nội vụ. Đến tháng 11 năm 1837, Đô thống dinh Thần cơ, quyền giữ ấn triện Tiền quân Phạm Hữu Tâm đổi làm Đô thống thự Đô thống chưởng phủ sự, phủ Tiền quân Đô thống, lĩnh ấn triện dinh Thần cơ.

Sách Đại Nam liệt truyện và Đại Nam nhất thống chí cho biết, tháng 8 năm 1838, ông được thăng Tiền quân Đô thống phủ Đô thống Chưởng phủ sự, lúc này ông vừa tròn 59 tuổi. Theo quan chế Minh Mạng thì chức danh Tiền quân Đô thống phủ Đô thống Chưởng phủ sự thuộc hàng võ quan cấp cao bấy giờ, ngạch chánh nhất phẩm, đứng đầu một trong năm Ngũ quân (gồm Trung quân, Tiền quân, Tả quân, Hữu quân và Hậu quân) dưới thời Nguyễn. Tiếp đó, để xiển dương bậc trọng thần kỳ cựu, công nghiệp sáng ngời, vua Minh Mạng sai quân Bộ Bình cho khắc tên ông vào bia Võ Công. Hiện nay, tấm bia Võ Công tả bi được đặt trang trọng trong khuôn viên Võ Miếu, trên đó ghi rõ danh tính, chức tước: Thái tử Thiếu bảo Tiền quân Đô thống phủ đô thống Chưởng phủ sự Tân Phúc hầu Phạm Hữu Tâm cùng với quê quán và hành trạng ngài Tân Phúc hầu.

Ghi nhận những đóng góp hết sức to lớn của ông, tháng 10 năm 1838, tấn phong Tiền quân Đô thống Chưởng phủ sự Tân Phúc bá Phạm Hữu Tâm làm Tân Phúc hầu, lãnh giữ chức Tổng đốc An – Tĩnh (1839), tức hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh, rồi kế đó (08/1839) là Tổng đốc Hà – Ninh (Hà Nội – Ninh Bình), năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), gia hàm Thái tử Thái bảo. Nhân gặp lễ Ninh lăng Thánh Tổ Nhân hoàng đế, ông về Kinh dâng hương, vua Thiệu Trị xuống dụ ân thưởng cho cái đai vàng mã nảo khảm ngọc châu.

Năm 1842, lúc này đang ở Hà Thành, ông bị bệnh nặng. Tới khi bệnh tình không thuyên giảm, ông xin về quê nhưng đi đến Nghệ An thì mất. Thương tiếc bậc trung thần suốt đời tận lực phò tá, vua Thiệu Trị gia phong Quận công, ban tên thụy là Trung Túc, “thưởng thêm gấm nhiễu các hạng, sai Thị vệ đi ngay đến ban cấp, chuẩn cho ngựa trạm đưa linh cữu về quê. Ngày an táng, cho 3000 quan tiền, sai quan tế 2 lần”. Phần mộ của Phạm Hữu Tâm tọa lạc tại xứ đất có tên Đội Hạ, thuộc làng Cổ Lão. Sau ngày ngài Phạm Hữu Tâm mất, nội bộ làng thiết đặt quy chế thờ tự thường niên, định đặt ruộng đất hương hỏa. Theo lệ, hàng năm vào các kỳ đại tế “Xuân Thu nhị kỳ”, tên ngài cũng được xướng danh và phối hưởng tại đình trung.

 Trong bản Văn tế làng Cổ Lão, đoạn chép về ngài với đầy đủ phẩm hàm, chức tước, thụy hiệu như sau: Đặc tấn Tráng Võ tướng quân thượng trụ quốc, gia tặng Tân Phước quận công, thụy Trung Túc Phạm quý công tôn thần.

Phạm Hữu Tâm làm quan trải qua 3 đời vua (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị), kinh qua nhiều chức vụ khác nhau (Khâm sai Cai cơ cơ Tả Thắng, Cai đội, Phó quản cơ Hiệu Thuận, Phó vệ úy ban trực Trung quân Thần Sách, Trấn thủ Biên Hòa, Thống chế hậu dinh Thần sách, thự Thảo nghịch Hữu tướng quân, Thống chế dinh Thần Cơ, kiêm quản Tào chính, Đô thống dinh Thần cơ, Tổng đốc An – Tĩnh, Tổng đốc Hà – Ninh…). Cũng chừng đó thời gian, ông thường xuyên thay đổi nhiệm sở, đặc trách hàng loạt các công việc cơ yếu của triều đình, từ tiễu trừ giặc phỉ, xây dựng cung thất, cầu cống, thao diễn thủy binh, vận tải hộ lương đến việc tổ chức tuần phòng vùng biên ải, kiểm kê khí giới, quản lý các lính Hoa danh và Giáo dưỡng, Tuần tra Vũ khố.

Trong hơn 40 năm tận tụy giúp rập triều chính, với sự mẫn cán và tài thao lược của vị võ tướng chinh đông dẹp bắc Phạm Hữu Tâm đã đóng góp công lao rất lớn trong việc ổn định vùng biên viễn phía Nam tổ quốc. Đương thời ông nhận được sự tín nhiệm từ vua Minh Mạng, sự sủng ái của vua Thiệu Trị, chính vì thế sau ngày mệnh chung, vua Thiệu Trị tỏ lòng thương tiếc vị công thần công tích rạng rỡ, “một lòng trung tiết dẹp yên giặc nghịch, công nghiệp rõ ràng, danh vọng rõ rệt”. Có thể nói, Tân Phúc hầu là một trong những vị danh tướng để lại rất nhiều dấu ấn trên nhiều phương diện, con đường binh nghiệp của ông thật xứng đáng để hậu thế tôn vinh, xiển dương.

  • Phạm Hữu Xuân: Phạm Hữu Tâm lập thất với tất cả 5 bà, gồm chánh thất Vương Thị Quỳnh, thứ thất Võ Thị Thứ, trắc thất Tống Thị Lai và hai bà Lê Thị Nga, Tống Thị Dưỡng sinh hạ tất cả 16 người con, cả trai lẫn gái. Hổ phụ sinh hổ tử, truyền thống võ nghiệp của gia tộc về sau tiếp tục được kế tục, vun trồng.

Trong số những người con của ngài Tâm, người con thứ hai Phạm Hữu Xuân là người có tư chất thông minh. Phạm Hữu Xuân từ nhỏ đã có tài thao lược, được ấm thụ Tinh binh phó Vệ úy, tập phong tước Bá. Năm 1863, ông được thăng Chưởng vệ lãnh chức Đề đốc tỉnh Sơn Tây. Ông là người có công rất lớn trong đợt dẹp loạn thổ phỉ chiếm cứ Tuyên Quang Đoan Hùng. Ông mất ngày 28 tháng 05 năm Tự Đức thứ 16 (1863), lúc còn đương nhiệm, được truy tặng hàm Thống chế.

  • Phò mã Đô úy Phạm Hữu Hóa: Người con thứ 3 là Phò mã Đô úy Phạm Hữu Hóa, làm đến chức Biện lý bộ Công, về sau lấy công chúa Mỹ Thuận (tức Nguyễn Phúc Nhàn Tuệ, hoàng nữ thứ 50 của vua Minh Mạng và bà Tiệp dư Nguyễn Thị Viên.

Qua bao bể dâu của thế cuộc, thế hệ con dân Cổ Lão ngày nay vẫn tiếp tục chung tay gìn giữ những di sản văn hóa quý báu, “trao truyền” truyền thống tốt đẹp mà tổ tiên dày công vun đắp.

Tham khảo: Làng Văn Vật Thừa Thiên Huế – Phan Thuận An

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *