HƯNG MIẾU (HƯNG TỔ MIẾU) và THẾ MIẾU (THẾ TỔ MIẾU)
Hưng Miếu là nơi thờ chúa Nguyễn Phúc Luân, thân sinh của vua Gia Long. Thế Tổ Miếu được xây dựng từ năm 1821 - 1823, dưới thời vua Minh Mạng để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và danh xưng Thế Tổ Miếu được đặt theo miếu hiệu này; và về sau, để thờ các vị vua của triều Nguyễn sau khi họ băng hà.
HƯNG MIẾU (HƯNG TỔ MIẾU)
Hưng Miếu là nơi thờ chúa Nguyễn Phúc Luân, thân sinh của vua Gia Long. Hưng Miếu được dựng từ năm Gia Long thứ ba (1804) ở góc Tây Nam trong Hoàng Thành, tức tại vị trí Thế Miếu ngày nay với tên gọi là Hoàng Khảo Miếu. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía Bắc chừng 50m để lấy chỗ dựng Thế Miếu và đổi tên thành Hưng Tổ Miếu.
Hưng Miếu quay mặt về hướng Nam, xung quanh có xây tường bao bọc và hệ thống cửa ra vào. Miếu được xây theo lối “nhà kép”, chính đường 3 gian 2 chái kép, tiền đường 5 gian 2 chái đơn. Bên trong đặt khám thờ bài vị của Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế và Hoàng hậu. Lễ tế ở Hưng Miếu mỗi năm tổ chức 5 lần giống như ở Thái Miếu và Thế Miếu.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tháng 02/1947, Hưng Miếu đã bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1951, bà Từ Cung và con là Quốc trưởng Bảo Đại đã thương lượng với hậu duệ của An Khánh Vương và mua lại phủ thờ của ông hoàng ấy từ Kim Long đưa về cải tạo và dựng lại trên nền cũ của Hưng Miếu để tiếp tục thờ chúa Nguyễn Phúc Luân và vợ. Năm 1995 tòa nhà này lại được tu bổ thêm một lần nữa. Trong lần tu bổ này, miếu được sơn son, thếp vàng.
THẾ MIẾU (THẾ TỔ MIẾU)
Các vị vua nhà Nguyễn sử dụng hệ tư tưởng Nho giáo để cai trị đất nước, hệ tư tưởng này đã ảnh hưởng đến cả thể chế và kiến trúc xây dựng trên các công trình. Khác với triều đình phong kiến Trung Hoa, nhà Nguyễn đã cho xây dựng trong Hoàng Thành 5 ngôi miếu thờ: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu và điện Phụng Tiên; đồng thời hàng năm đặt ra nhiều lễ để thờ cúng công việc thờ cúng được sắp đặt một cách quy củ và theo trình tự (Đại tự Trung tự và Quần tự). Trong đó, Thế Tổ Miếu được đưa vào hàng đại tự, đây cũng là khu vực thờ tự còn khá nguyên vẹn nhất của triều Nguyễn.
Thế Tổ Miếu được xây dựng từ năm 1821 - 1823, dưới thời vua Minh Mạng để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và danh xưng Thế Tổ Miếu được đặt theo miếu hiệu này; và về sau, để thờ các vị vua của triều Nguyễn sau khi họ băng hà. Trải qua nhiều biến cố lịch sử và nhiều lần tu bổ, sửa chữa, Thế Tổ Miếu vẫn giữ nguyên kiểu kiến trúc ban đầu.
Về kiến trúc Thế Tổ Miếu được thiết kế theo lối kiến trúc “trùng lương trùng thiềm”, gồm hai bộ mái với hai bộ kèo được nối với nhau bằng “trần thừa lưu (còn gọi là trần vỏ cua), tạo thành một không gian nội thất chung, rộng rãi và thâm nghiêm. Nhà chính có 9 gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh xảo. Phần mái ngói của Thế Miếu được lợp ngói hoàng lưu ly, trên đỉnh nóc gắn thái cực bằng pháp lam màu sắc rực rỡ.
Thế Tổ Miếu là công trình được trang trí nhiều ô thi họa nhất, có đến 676 ô thơ nằm trên các liên ba, đố bản, cổ diềm. Mỗi ô thơ đều chạm rất công phu bằng kỹ thuật chạm âm nền xuống để nổi bật chữ lên, tất cả đều được sơn son thếp vàng trở thành một bức thư pháp rực rỡ và độc đáo vô cùng. Nội dung các ô thơ ở đây chủ yếu ngợi ca công đức của vua Gia Long tán tụng công lao khôi phục cơ đồ, khai sáng triều đại, mở mang bờ cõi... Bên cạnh đó, lồng vào những tư tưởng sử dụng trong việc cai trị nước, chủ yếu dựa trên nền tảng Nho học: tu thân, tề gia, trị quốc...
Ở mỗi gian được sắp xếp: ngoài cùng là án thờ, tiếp đến là bàn thờ, sập thờ và trong cùng là khám thờ. Án thờ vua Gia Long và hai Hoàng hậu đặt ở gian chính giữa, các án thờ của những vị vua còn lại được đặt ở hai bên theo nguyên tắc “tả chiêu, hữu mục” để sắp đặt. Theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị “phế đế”, “xuất để” thì không được thờ trong tòa miếu này. Vì vậy trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây:
- Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và hai Hoàng hậu Thừa Thiên, Thuận Thiên (gian chính giữa).
- Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian gian thứ nhất bên trái (tính từ gian giữa).
- Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian thứ nhất bên phải (tính từ gian giữa).
- Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian thứ hai bên trái (tính từ gian giữa)
- Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian thứ hai bên phải (tính từ gian giữa).
- Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian thứ ba bên trái (tính từ gian giữa). 7.Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian thứ ba bên phải (tính từ gian giữa).
Đến tháng 10/1958, ba vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đã được con cháu trong hội đồng Nguyễn Phúc Tộc đưa vào thờ trong miếu, được sắp đặt như sau:
- Án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian thứ tư bên trái (tính từ gian giữa).
- Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian thứ năm bên trái (tính từ gian giữa)
- 10. Án thờ vua Duy Tân đặt ở gian thứ tư bên phải (tính từ gian giữa).
Trong 13 đời vua nhà Nguyễn, 3 vị vua: Dục Đức, Hiệp Hòa và Bảo Đại không được thờ tự trong miếu này.
Ở phía trước Thế Miếu là một khoảng sân rộng, hai bên có đôi Kỳ Lân bằng đồng đứng uy nghiêm trong thiết đình. Đặc biệt ở góc cửa phía Tây của Thế Miếu có một cây thông cổ thụ, hình dáng uốn lượn rất đẹp, tương truyền được trồng từ khi xây miếu. Trong khuôn viên của Hưng Miếu và Thế Miếu có nhà Thần Trù (nhà bếp), Thần Khố (nhà kho) nằm song song với hai tòa miếu.