Lăng vua Thiệu Trị (Xương lăng)

Lăng vua Thiệu Trị

Lăng vua Thiệu Trị là một trong 7 khu lăng mộ của các vua Nhà Nguyễn được nhiều khách du lịch ghé tham quan hàng năm rất đông. Cùng Cố đô Huế tìm hiểu sâu hơn về khu lăng mộ này qua bài viết bên dưới.

Lăng vua Thiệu Trị
Lăng vua Thiệu Trị

Sơ lược tiểu sử vua Thiệu Trị

Vua Thiệu Trị là vị Hoàng đế thứ 3 của triều Nguyễn, nhà vua tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông, tên húy Nguyễn Phúc Tuyền. Ngài sinh ngày 11 tháng 05 năm Đinh Mão (16/06/1807); là con trai trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Khi mới sinh ra được 13 ngày thì mẹ mất, được Thái hoàng Thái hậu Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ của vua Gia Long) đem về nuôi dưỡng. Đến năm 1830 ngài được phong là Trường Khánh Công; năm 1837 được kiêm nhiếp Tôn Nhơn Phủ để trông coi việc hoàng tộc. Ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11/2/1841) ngài lên ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị.

Vua Thiệu Trị là người hiền hòa, siêng năng việc nước, nhưng không bày ra những việc mới, việc nội trị cũng như ngoại giao dưới thời vua trị vì đều mong giữ gìn những thành quả đạt được, nối tiếp và hoàn thiện những công việc còn dở dang. Vua chú trọng việc học hành, cho tiếp tục soạn bộ “Thực lục tiền biên”, bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ”. Nhà vua sống hoàn toàn theo tinh thần của đạo Nho, hâm mộ đạo Phật, năm 1844 vua Thiệu Trị đã cho dựng tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ để cầu mong bà nội của mình là bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu sống thọ. Năm 1846 vua cho xây chùa Diệu Đế ở phía đông Kinh Thành, để mong dân chúng hướng về điều thiện (Chùa Diệu Đế là 1 trong 4 ngôi Quốc Tự của Huế). Ngoài ra, vua còn cho xây cung Bảo Định, trong đó tiêu biểu nhất là điện Long An, cung điện đẹp nhất dưới thời nhà Nguyễn, ngày nay là Bảo Tàng Cổ vật Cung đình Huế; đặc biệt nữa là khu di tích hồ Tịnh Tâm, một thắng cảnh nổi tiếng ở Huế.

Vua Thiệu Trị là một người rất thích phong cảnh, thích làm thơ, đã ngự chế 20 bài thơ vịnh cảnh đẹp của chốn Thần Kinh (chùm thơ “Thần Kinh nhị thập cảnh”). Một số thắng cảnh đã được khắc thơ vào bia đá và dựng tại đó; một số khác thì được vẽ tranh gương rồi viết thơ treo tại hoàng cung. Vua lâm bệnh và băng hà vào ngày 27 tháng 09 năm Đinh Mùi (04/10/1848), giữa tuổi 41.

Công cuộc tìm cuộc đất xây lăng và quá trình xây dựng lăng

Lúc sinh thời vua Thiệu Trị chưa nghĩ đến việc chọn ngôi đất xây lăng cho mình, lúc lâm chung nhà vua đã dặn dò với người con trai sắp kế vị là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao, chân núi cận tiện, để dân binh dễ công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, hao phí đến tài lực của binh dân”. Vâng mệnh vua cha, vua Tự Đức đã sai các quan địa lý đi chọn đất xây lăng. Họ tìm được cuộc đất tốt ở chân núi thấp thuộc làng Cư Chánh, cách Kinh Thành chừng 08km để xây cất lăng mộ. Ngọn núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo.

Quá trình xây cất lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, nên chỉ sau ba tháng thi công, các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14 tháng 06 năm 1848, vua Tự Đức thân hành lên kiểm tra lần cuối công trình và đặt tên là Xương Lăng. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 08 tháng quàn tại điện Long An trong cung Bảo Định. Riêng tấm bia “Xương Lăng Thánh Đức Thần Công” mãi đến ngày 19/11/1848 mới được dựng tại nhà Bi Đình. Như vậy lăng vua Thiệu Trị thời gian thi công chưa đầy 10 tháng.

Tổng thể kiến trúc lăng vua Thiệu Trị

Tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng vua Gia Long và lăng vua Minh Mạng. Xương Lăng giống với Thiên Thọ Lăng ở chỗ đều không có La thành, khu vực lăng mộ và khu vực tẩm điện nằm biệt lập, nhưng lại song song với nhau. Xương Lăng lại giống Hiếu Lăng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo.

Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng chưa bao giờ được sử dụng trong các công trình kiến trúc lớn của triều Nguyễn, lăng dựa lưng vào núi Thuận Đạo, phía trước xa xa 8km là ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm “tiền án”, đằng sau có núi Kim Ngọc làm “hậu chẩm”. Về phương diện phong thủy, lăng vua Thiệu Trị ở vào vị thế “Sơn chi thủy giao”, phía bên phải cách lăng khoảng 1km là đồi Vọng Cảnh, phía bên trái bên kia bờ sông có núi Ngọc Trản chầu vào, theo thể “Tả long, Hữu hổ”. Trong lăng lại có hồ bán nguyệt giao nhau bằng đường cống xây ngầm dưới các lối đi. Như vậy thiên nhiên và kiến trúc ở lăng liên quan mật thiết với nhau, chính điều này đã tạo cho cảnh quan lăng vua Thiệu Trị có sự thanh thoát và yên bình.

KHU VỰC LĂNG

Khu vực lăng nằm bên phải tẩm điện, phía trước có hồ Nhuận Trạch hình bán nguyệt với diện tích hơn 3.000m2, bên trên hồ có ba chiếc cầu bắc qua: Đông Hòa (phải), Chánh Trung (giữa) và Tây Định (trái).

Ngay sau hồ là Nghi Môn bằng đồng, được đúc theo kiểu “Long vân đồng trụ” dẫn vào sân Bái đình, ở giữa sân có đường thần đạo xuyên suốt cho đến tận Bửu Thành (nơi an táng thi hài của vua Thiệu Trị). Hai bên sân thiết đặt hai hàng tượng đá uy nghi, đây là những bức tượng tiêu biểu cho nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ XIX ở Huế.

  • Bi Đình

Nhà Bi đình xây dựng theo dạng “Phương đình”, bên trong đặt tấm bia “Thánh Đức Thần Công”, với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ. Bài văn bia này do vua Tự Đức viết để ca ngợi công đức của cha mình. Sau Bi Đình là lầu Minh Đức (tên cũ là lầu Đức Hinh), được xây trên quả đồi thấp có hình mai rùa, đây là tòa nhà có nhiều nét gần giống như tòa Minh Lâu ở lăng vua Minh Mạng, hiện nay chỉ còn nền móng.

Lăng vua Thiệu Trị
Bi Đình trong lăng vua Thiệu Trị
  • Bửu thành

Bửu Thành là một vòng thành hình tròn xây bằng gạch vồ trát vôi vữa truyền thống, cao khoảng 3m, chu vi 260m. Bửu Thành chỉ trổ một cửa duy nhất, có tên “Bửu Thành Môn”, trước cổng có xây hệ thống bậc cấp, hai bên đặt hai con rồng đá dài 5,9m; mỗi con được dùng từ hai khối đá Thanh ghép lại. Bên trong Bửu Thành trồng nhiều loại cây, nhưng chủ yếu vẫn là cây thông.

Theo tư liệu nhà Nguyễn thì linh cữu của hoàng đế Thiệu Trị được đưa theo đường toại đạo (đường hầm) vào đặt tại vị trí an táng bên trong Huyền Cung. Kiến trúc và cách an táng hoàn toàn giống lăng vua Minh Mạng

Lăng vua Thiệu Trị
Mộ vua vua Thiệu Trị

KHU TẨM ĐIỆN

Hồ Điện nằm ở phía trước khu vực tẩm điện, hồ có hình bán nguyệt với diện tích khoảng 2.400m. Khác với hồ Ngưng Hy và hồ Nhuận Trạch, hồ Điện có xây nữ tường bao bọc chung quanh, hệ thống nữ tường này được làm bằng gạch vồ, bên cạnh trang trí thêm gạch hoa đúc rỗng.

Đối diện với Phường Môn, nằm phía bên kia hồ là một bức tường bình phong làm tiền án cho khu vực tẩm, xung quanh là hệ thống cây thông tượng trưng cho khí phách của người quân tử. Phường Môn là chiếc cổng khá đặc biệt so với những công trình kiến trúc tương đương khác trong toàn bộ quần thể cung đình Huế, bởi lẽ nó được làm bằng đá cẩm thạch, cổng được chia thành 3 lối đi, trên thân các cột, ở mặt trước và mặt sau đều được trang trí bằng những câu đối chữ Hán làm bằng pháp lam ngũ sắc. Ở phần trên các trụ cột được liên kết nhau bằng một dãy liên ba, các ô hộc liên ba được trang trí bằng những họa tiết sinh động. Bức hoành phi ở chính giữa đề bốn chữ Hán: “Thành Công Nguy Nhiên” nằm ở mặt trước và “Minh Đức Viễn Hỷ” ở mặt sau.

Lăng vua Thiệu Trị
Phường Môn

Bước lên tam cấp dẫn vào khu vực điện Biểu Đức, là một cổng tam quan có quy mô tương đối rộng, cổng được xây dựng với vật liệu chủ yếu là gỗ và gia cố thêm bằng hệ thống tường gạch vồ. Từ cửa Hồng Môn đến điện Biểu Đức là một khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng, có đường thần đạo bằng đá Thanh ngay ở giữa. Điện Biểu Đức nằm ở vị trí trung tâm của khu vực tẩm điện, điện xây theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, có 7 gian 2 chái. Mái điện lợp ngói Hoàng lưu ly, trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diêm và đầu hồi đắp nổi hình rồng giao, bầu rượu. Trang trí nội, ngoại thất của điện Biểu Đức là những đố bản làm theo kiểu khung tranh đố lụa, cùng hệ thống liên ba gồm những ô hộc trang trí“nhất thi nhất họa” rất tinh xảo. Bên trong nội thất, ở gian chính giữa là nơi đặt bài vị của vua Thiệu Trị và Hoàng hậu Từ Dũ.

Lăng vua Thiệu Trị
Điện Biểu Đức

Trước điện Biểu Đức, hai bên có hai nhà Tả, Hữu Tùng Tự (là nơi thờ các quan văn, võ dưới thời vua Thiệu Trị). Phía sau điện là hai nhà Tả, Hữu Tùng Viện (là nơi đất phi tần ở chăm sóc, hương khói cho vua sau khi vua mất). Các công trình phụ nội quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng làm tôn thêm vẻ cao quý của tòa chính điện.

Một điều rất đặc biệt là lăng vua Thiệu Trị nằm gần với các lăng mộ của dòng họ, chếch về phía trước bên phải là lăng Hiếu Đông của bà Hồ Thị Hoa (mẹ vua); còn bên trái phía sau là Xương Thọ lăng của bà Từ Dũ (vợ vua) và không xa phía trước là khu mộ “tảo thương” (tảo thương nghĩa là chết lúc còn nhỏ), trong đó có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ tuổi. Như vậy nhiều thành viên trong gia đình nhà vua đã được quây quần đoàn tụ bên nhau.

Sau gần hai thế kỷ tồn tại, trải qua nhiều biến cố lịch sử, lăng vua Thiệu Trị đã xuống cấp nghiêm trọng ảnh hưởng đến cảnh quan chung quanh của cả khu vực, cũng như nhu cầu đến tham quan của du khách. Việc trùng tu lăng đã được Trung tâm Bảo tồn Di tích thực hiện tập trung vào điện Biểu Đức trong thập niên đầu của thiên niên kỷ mới, để có được diện mạo như ngày hôm nay. Tháng 06 năm 2013 hai công trình Tả, Hữu Tùng Viện nằm trong khu vực tẩm điện đã được khởi công phục hồi, tôn tạo, tu bổ theo nguyên tắc đảm bảo tính nguyên bản, tính chân xác, tính toàn vẹn và bền vững. Năm 2015, sau hai năm thực hiện hai công trình này đã được hoàn thiện, với tổng kinh phí trùng tu là 23,3 tỷ. Hiện nay, lăng vua Thiệu Trị vẫn tiếp tục nghiên cứu và triển khai trùng tu một số công trình khác như: phục hồi nhà Tả, Hữu Tùng Tự, nạo vét và hoàn thiện hệ thống kè đá quanh các hồ nước…

Thông tin du lịch lăng vua Thiệu Trị

Do một thời gian dài bị tàn phá, mới đây lăng vua Thiệu Trị mới được trùng tu sửa chữa. Nên không nhiều du khách biết đến sự tồn tại của lăng. Các công ty lữ hành cũng không chọn lăng vua Thiệu Trị là điểm phải đến. Nên nhìn chung lăng khá vắng khách tham quan. Hi vọng sau khi hoàn thành trùng tu, lăng sẽ đón nhận thêm nhiều lượt khách đến tham quan tìm hiểu.

>>> Xem thêm: Tìm hiểu lịch sử các khu lăng mộ của các vua triều Nguyễn

Nguồn: THUYẾT MINH CÁC ĐIỂM THAM QUAN THỪA THIÊN HUẾ – SỞ DU LỊCH THỪA THIÊN HUẾ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *