Lăng vua Minh Mạng được khởi công vào tháng 9/1840. Công trình đang tiến hành thì vua Minh Mạng lâm bệnh và băng hà ngày 20/01/1841. Một tháng sau, ngày 21/2/1841, vua Thiệu Trị ra lệnh cho bộ Công điều động binh lực thợ thuyền gấp rút tiếp tục xây dựng lăng tẩm cho Đại Hành Hoàng Đế Minh Mạng (cách gọi của triều đình khi vua băng hà nhưng chưa an táng). Công trình được đặt dưới sự chỉ huy và giám sát của các đại thần: Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Đường. Cùng với gần 10 ngàn lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng bản vẽ của bộ Công đã được vua Minh Mạng phê duyệt. Công việc xây lăng đến năm 1843 thì cơ bản hoàn thành.
Sơ lược về vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng là vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, nhà vua có tên là Nguyễn Phúc Đảm (còn có tên là Kiểu). Ngài sinh ngày 23 tháng 04 năm Tân Hợi (25/5/1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, là con thứ tư của Hoàng đế Gia Long và Thuận Thiên Hoàng hậu Trần Thị Đang. Thuở nhỏ vua đã tỏ ra thông minh, hiếu học, văn võ song toàn; năm 1815, vua được đến ở cung Thanh Hòa tập sự làm quen việc nước; năm 1820, lên ngôi ở điện Thái Hòa lấy niên hiệu Minh Mạng lúc bấy giờ đã 30 tuổi nên vua rất am hiểu công việc triều chính.
>>> Xem thêm: Tìm hiểu lịch sử các khu lăng mộ của các vua triều Nguyễn
Trong 13 đời vua triều Nguyễn, thời Minh Mạng được đánh giá là giai đoạn thịnh vượng nhất, hùng mạnh nhất của nước ta. Đây là một vị vua có công lao rất lớn đối với quốc gia dân tộc. Trong hai mươi năm trị vì, vua đã thay đổi nhiều việc, từ đối nội, đối ngoại cho đến những cải cách kinh tế chính trị xã hội cùng những việc trong dòng họ.
Về đối nội: Bộ máy nhà nước được sửa đổi cải thiện theo chế độ trung ương tập quyền, cho bỏ các Dinh và Trấn mà thành lập các Tỉnh. Cả nước được chia thành 31 tỉnh, đặt các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát và các Lãnh binh để trông coi. Năm 1820 thành lập Nội các, năm 1830 đặt ra Cơ Mật Viện trông coi việc nước. Để cho xã hội có quy củ nề nếp, vua cho thống nhất việc đo lường, cấp cho các phủ huyện mẫu cân, thước, đấu hộc…Đặc biệt là thống nhất y phục cho cả 3 miền.
Về kinh tế: Nhà vua cho đúc tiền và vàng thỏi lưu hành chung cho cả nước, chú trọng việc khai thác khoáng sản, củng cố hệ thống đê điều, đào kinh, mở mang đường sá, cầu cống, đi lại và hàng hóa trong cả nước được lưu thông dễ dàng. Vua còn ban dụ lập nhà dưỡng tế tại các tỉnh để giúp đỡ cho những người nghèo khổ hoặc già cả không nơi nương tựa.
Về giáo dục: Vua Minh Mạng rất quan tâm việc học hành và thi cử. Năm 1821, vua cho lập trường Quốc Tử Giám trên cơ sở của Đốc học đường của triều vua Gia Long. Ngoài kỳ thi Hương có từ trước, nhà vua còn mở thêm các kỳ thi Đình, thi Hội để tuyển chọn nhân tài khắp cả nước, cho sưu tập tài liệu sách sử, khuyến khích biên soạn sách, nhiều cuốn có giá trị như: Gia Định Thành Thông Chí, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí…
Về chính trị, quân sự: Vua Minh Mạng xây dựng nước ta hùng mạnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á; đổi tên nước thành Đại Nam và cho vẽ Đại Nam Nhất thống toàn đồ, trên đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thời vua trị vì bờ cõi nước ta được mở rộng, lãnh thổ Việt Nam lúc bấy giờ lớn nhất trong lịch sử.
Về đối ngoại: Được nhà vua quan tâm chăm lo thấu đáo giữ gìn giềng mối các nước lân bang. Đặc biệt chú ý đến các nước phương Tây xâm chiếm thuộc địa. Vua cho thuyền đến Penang rồi Calcuta, cử phái bộ ngoại giao sang Anh, sang Pháp. Những việc này cho thấy nhà vua có tầm nhìn xa trông rộng.
Việc dòng họ được nhà vua để tâm nhiều, nhất là khi con cháu ngày càng đông. Năm 1820 vua cho lập Tôn Nhơn Phủ để trông coi các việc trong Hoàng tộc, quy định lễ nghi, âm nhạc..Vua còn ngự chế Đế hệ thi và Phiên hệ thi để đặt tên cho con cháu và định thân, sơ các nhánh trong Nguyễn Phúc Tộc…
Ngoài ra vua còn cho khởi soạn nhiều bộ sử quan trọng ghi chép các sự kiện của triều đại như tu bổ lăng tẩm của các Chúa Nguyễn, sửa sang lại các cung điện như điện Thái Hòa, Đại Cung Môn, xây dựng Ngọ Môn, Hưng Miếu, Thế Miếu… Đặc biệt vua cho đúc 9 đỉnh đồng đặt trước Thế Tổ Miếu để làm báu vật cho muôn đời con cháu, cũng là một kiệt tác bằng đồng của thế kỷ 19, nay đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Trong sự nghiệp văn chương, vua để lại nhiều trước tác thơ văn mang nhiều giá trị học thuật, giáo dục cùng đường lối trị nước của mình.
Ngày 28 tháng chạp năm Canh tý (20/01/1841), vua Minh Mạng băng hà tại điện Quang Minh, hưởng dương 51 tuổi. Khi vua Thiệu Trị lên kế vị đã dâng thụy hiệu cho cha mình là Thánh Tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng Đế.
Công cuộc tìm cuộc đất tốt để xây dựng lăng
Các vị hoàng đế triều Nguyễn đều nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm cho mình khi còn tại vị trên ngai vàng. Theo tiền lệ đó, sau khi lên ngôi được 7 năm, vua Minh Mạng đã sai các quan trong triều giỏi về địa lý, phong thủy đi chọn lựa ngôi đất tốt “Vạn niên cát địa” để chuẩn bị xây lăng cho mình.
Năm 1826, quan địa lý Lê Văn Đức, sau 1 năm tìm kiếm đã chọn được cuộc đất ở núi Cẩm Kê, ấp An Bằng (ngày nay thuộc địa phận xã Hương Thọ, thành phố Huế ), nằm gần ngã ba Bằng Lãng nơi hợp lưu giữa hai dòng Tả trạch và Hữu trạch tạo nên dòng sông Hương (sau này thường được gọi là ngã ba Tuần). Nhưng vì tính cẩn trọng nên vua Minh Mạng đã lệnh cho các quan địa lý tiếp tục công việc tìm kiếm ngôi đất. Mãi đến tháng 04/1840, nhà vua thân hành lên xem lại cuộc đất rồi mới quyết định chọn nơi này làm nơi xây dựng sơn lăng. Nhà vua đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và đặt tên cho lăng tẩm của mình là Hiếu lăng. Như vậy việc đi tìm ngôi đất cũng mất đến 14 năm.
Hiếu Lăng có diện tích rộng khoảng 16,5 ha. Đây là một quần thể kiến trúc bao gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ, được xây dựng theo chuẩn mực kiến trúc Nho Giáo, các công trình toát lên vẻ đường bệ uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa gần gũi với thiên nhiên, đây chính là sự tài ba lỗi lạc của các nhà kiến trúc xưa. Lăng gối đầu lên hai ngọn núi, ngọn thấp là Hiếu Sơn, ngọn cao nhất là núi Kim Phụng (núi chủ của Huế), xoay mặt về hướng Đông Nam; sông Hương phía trước làm “minh đường”, dãy núi Tứ Tượng bên kia sông làm “tiền án”. Bên trái lăng có núi Ngọc Trản làm thế “Tả thanh long” bên phải có núi Tôn Sơn làm thế “Hữu bạch hổ”
Các công trình kiến trúc chính của Hiếu Lăng được sắp đặt cùng nằm trên một trục dọc, đường Thần đạo chạy sâu vào phía trong dài khoảng 700 mét, dành cho hoàng đế, lợp ngói Hoàng lưu ly (ngói vàng). Còn các công trình phụ được bố trí hai bên, đối xứng từng cặp qua trục Thần đạo, dành cho quan lại và các bà thì lợp ngói Thanh lưu ly (ngói xanh)
Các công trình chính của lăng vua Minh Mạng
Đại Hồng Môn
Đại Hồng Môn là cổng chính và là cổng đầu tiên nằm trên đường Thần đạo của lăng. Đây là một trong những cổng tam quan tiêu biểu của thời Nguyễn. Cổng được xây bằng vôi gạch, cao hơn 9m, rộng 12m. Cổng có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp cùng các điển tích: “cá chép hóa rồng”, “long vân khế hội”. Đầu mỗi góc mái uốn cong như hình mũi hài tạo nên hình tượng những cánh sen nở rộng. Trên ba lối đi vào đều có các đồ án trang trí hoa mẫu đơn và chim trĩ, hoa mai, tùng lộc, ngô đồng và chim phụng…Các cánh cửa được sơn màu đỏ biểu tượng cho sự sống và sự trường tồn của vương triều Nguyễn. Đại Hồng Môn chỉ mở một lần lúc đưa quan tài nhà vua vào lăng, từ đó được đóng kín để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Ra vào lăng chỉ đi qua 2 cửa phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Sân Bái Đình
Sân Bái Đình bắt đầu từ phía sau Đại Hồng Môn đến trước Hiển Đức Môn. Đây là khoảng không gian chuyển tiếp dài 130m để đi vào khu Tẩm điện. Sân Bái Đình chia thành 5 tầng vừa ứng với triết lý ngũ hành vừa có 5 tầng sân bằng phẳng để các quan đứng vào cho đúng phẩm trật khi thực hiện nghi lễ tại lăng.
Hai bên sân Bái Đình ở tầng thứ nhất là hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa đứng chầu. Những tượng người và voi ở đây được điêu khắc theo lối tả chân, gần giống với thực tế. Cái tài của người xưa là đã làm mềm mại những bức tượng đá bằng những chi tiết trên thân áo của người hay trên bành và áo yên của voi và ngựa. Các hàng tượng đá ở lăng tẩm mang tính biểu tượng và ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh. Ngoài ra, ở tầng sân Bái Đình này còn thiết đặt hai bên hai con lân bằng đồng, là linh vật canh giữ nơi tôn nghiêm.
Nhà Bi Đình
Nhà Bi Đình nằm trên tầng thứ hai của sân Bái Đình. Bi Đình được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của triều Nguyễn. Bộ mái lợp gồm có hai tầng chứa đựng yếu tố âm dương. Trên đỉnh trang trí bình hồ lô và hình rồng. Rồng tượng trưng cho nhà vua, hồ lô mang ý nghĩa hứng những tinh túy của trời đất.
Bên trong Bi Đình, trên các hệ thống vách ngăn được chia thành nhiều ô lớn nhỏ khác nhau. Mỗi ô được chạm một tiểu cảnh hoa lá, bát bửu hoặc 1 hay 2 câu thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn chữ Hán. Đặc biệt trên các dải liên ba của Bi Đình còn có 8 chữ Hán lớn được viết theo lối chữ “triện” (Thánh Văn – Thần Võ – Chí Nhân – Đại Đức) của vua Thiệu Trị với ý nghĩa ca ngợi vua Minh Mạng văn như thánh, võ như thần, nhân từ, đức lớn.
Trung tâm nhà Bi Đình là tấm bia đá lớn có khắc bài ký gọi là “Ngự chế Thánh Đức Thần Công bia ký” do vua Thiệu Trị soạn thảo, nội dung ca ngợi những công đức của vua Minh Mạng. Ngoài ra vua Thiệu Trị còn bày tỏ sự tiếc nuối đau thương trước sự ra đi của vua cha nhưng cố nén buồn phiền và noi theo công đức của cha để lo việc nước.
Hiển Đức Môn
Hiển Đức Môn là cổng chính của khu vực Tẩm điện. Đây là cánh cổng thứ hai nằm trên trục Thần đạo, được giới hạn bởi khung thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất (từ ý niệm trời tròn đất vuông).
Hiển Đức Môn được thiết kế như một tòa nhà 2 tầng 3 gian không có chái nằm trên một mặt nền cao hơn 1m so với tầng sân chầu thứ 5, nền xung quanh được bó vỉa bằng đá Thanh và lợp ngói ống tráng men. Toàn bộ công trình được chạm nổi công phu và sơn son thếp vàng. Các vì kèo chạm lá hóa long, hoa cúc. Liên ba được trang trí theo lối “nhất thi nhất họa” (tức là cứ một ô chạm chữ Hán lại điền một ô tranh). Cánh cửa giữa được sơn màu vàng và hai cửa hai bên thì sơn son. Ngay trên vòm cửa giữa, phía trước là một bức hoành phi chạm nổi 3 chữ Hiển Đức Môn. Nhưng dưới tác động của thời gian, thiên nhiên và con người, công trình này đã bị hư hỏng nặng. Từ năm 2008, với sự tài trợ của quỹ Di tích Thế giới (75.000USD) và 3,2 tỷ VNĐ từ khoản đóng góp một ngày lương của tập thể cán bộ CNVC Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam thì Hiển Đức Môn đã được trùng tu với diện mạo như bây giờ.
Bên trong Hiển Đức Môn, phía hai bên sân có hai tòa nhà là Tả, Hữu Tùng Tự. Đây là nhà để văn võ bá quan túc trực mỗi khi có việc lên Hiếu lăng, đồng thời cũng là nơi thờ các quan văn, võ có công với triều đình dưới thời vua Minh Mạng. Mỗi nhà có 3 gian 2 chái với bộ kèo đơn trụ tiêu đỡ vì nóc, thường thấy trong kết cấu nhà rường. Mái của hai công trình được lợp bằng ngói âm dương tráng men xanh.
Hiện nay Hữu Tùng Tự được dùng làm nơi trưng bày các vật liệu nguyên gốc của công trình, các vật liệu mới được sử dụng để trùng tu, các bản đồ liên quan đến việc khoanh vùng bảo vệ lăng và đặt sa bàn tổng thể của lăng Minh Mạng.
Điện Sùng Ân
Sùng Ân điện là nơi thờ Long vị của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Điện được xây dựng theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, mái lợp ngói Hoàng lưu ly, trang trí rồng trên đầu đao nóc mái; là công trình chính của Hiếu lăng nên tất cả đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Các đề tài trang trí bên trong nội thất điện đều là những đề tài thường gặp ở kiến trúc cung đình Huế: chữ thọ, hoa, lá, bát bửu… Tất cả đều hướng tới sự cầu phúc, cầu lộc, cầu thọ. Điều đáng lưu ý là các tiểu cảnh của Bát bửu, Nho, Phật, Lão đều có mặt đầy đủ và dường như không có sự ưu tiên nào. Chen giữa các ô tiểu cảnh còn có các ô chữ, đó là những câu thơ thất ngôn hay ngũ ngôn. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy tất cả thơ trang hoàng ở đây trong Ngự chế thi của vua Minh Mạng, có ô là một bài thơ, có khi nhiều ô là một bài, có khi chỉ trích một vài đoạn trong những bài thơ của nhà vua.
Hiện nay trong nội thất điện Sùng Ân đang trưng bày một số cổ vật thời vua Minh Mạng: Bộ sưu tập về các dụng cụ dùng để đo lường, bộ sưu tập đồ sứ ký kiểu từ nước Anh, Ấn “Sắc Mệnh chi bảo” (bản phục chế), nghiên mực, bút của vua và các bản tấu sớ, Châu bản thời vua Minh Mạng…
Phía sau điện Sùng Ân là hai công trình Tả Tùng Viện và Hữu Tùng Viện, nơi dành cho các cung nhân ở để chăm sóc, thờ phụng nhà vua. Hiện hai công trình này đã được trùng tu hoàn chỉnh.
Hoằng Trạch Môn
Khác với Đại Hồng Môn và Hiển Đức Môn, Hoằng Trạch Môn có quy mô nhỏ hơn, chỉ một lối đi hình vòm hiện ra một khung cảnh tuyệt đẹp phô bày trước của mắt. Mặt bằng của các công trình được hạ thấp xuống khá đột ngột, thấp thoáng sau tán của những cây đại cổ thụ là 3 cây cầu xinh xắn bắc qua lạch nước nổi giữa hai nửa hồ Trừng Minh, ở giữa là cầu Trung Đạo dành cho vua đi, hai bên là cầu Tả Phù, Hữu Bật dành cho tùy tùng. Bên kia là tòa Minh Lâu với dáng vẻ nhẹ nhàng soi bóng xuống hồ, khoe bộ mái vàng giữa bầu trời trong xanh và tán thông u tịch. Một cảnh trí tuyệt vời của lối kiến trúc cảnh quan. Và đây cũng là giới hạn kết thúc khu thành hình vuông của phần Tẩm điện biểu trưng cho cõi sống và mở ra không gian thứ ba là khu vực lăng mộ, nơi an táng thi hài nhà vua, biểu trưng cho cõi vĩnh hằng.
Minh Lâu
Minh Lâu được xây theo lối “phương đình”, được tọa lạc trên ngọn đồi có tên gọi là Tam Tài sơn. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu nhất, cao nhất và đẹp nhất ở lăng vua Minh Mạng, tên của công trình có nghĩa là lầu sáng. Nhiều học giả cho rằng Minh lâu mang nhiều ý nghĩa triết lý phương Đông: Trên đỉnh nóc là bầu Thái cực “vô cực sinh thái cực”, lầu có hai tầng chính, tượng trưng cho “lưỡng nghi”. Minh lâu có hình vuông tượng trưng cho “tứ tượng”. Bên trên có tám lá mái là “Bát quái”, Bát quái biến hóa tạo cho vạn vật sinh sôi…
Với tên gọi Minh Lâu của công trình này, nhiều người liên tưởng đến Minh Lăng (Thập Tam Lăng) ở Bắc Kinh (Trung Quốc), tại đó Minh Lâu là công trình quan trọng nhất trong lăng của các vị vua nhà Minh, nơi đặt bia chủ của nhà vua. Thực ra giữa các lăng của các vua nhà Minh và lăng của các vua nhà Nguyễn đều có những nét tương đồng và dị biệt. Minh lăng là một quần thể lăng tẩm đồ sộ nguy nga, ở đây các ngôi mộ có liên quan chặt chẽ của vua nhà Minh, nằm trên một vùng núi cao và các lăng này cùng có chung một cảnh quan địa lý phong thủy. Trong khi lăng tẩm các vua nhà Nguyễn lại mang tính chất độc lập riêng biệt, mỗi lăng đều có vị trí khác nhau và có lối kiến trúc lại nhỏ nhắn xinh xắn gần gũi với thiên nhiên.
Minh Lâu của lăng Minh Mạng chỉ có chức năng là nơi dành cho các vua đời sau đến ngắm cảnh nghỉ ngơi, ngưỡng vọng về các bậc tiên đế. Ở giữa tòa Minh Lâu có một sập thờ làm bằng một tấm gỗ lim lớn, quanh sập có hoa văn, hoa lá được cẩn bằng xà cừ, dưới bốn chân sập được gắn bốn bánh xe bằng đồng để dễ dịch chuyển, đây là một trong những cổ vật giá trị còn bảo lưu được tại lăng vua Minh Mạng.
YẾU TỐ PHONG THỦY Ở KHU VỰC MINH LÂU
Nằm trong tổng thể kiến trúc của khu vực Minh Lâu phía trước sát hồ Trừng Minh bên trái còn có Nghinh Lương Quán, bên phải có Điếu Ngư Đình. Hai ngôi đình này có kiến trúc, dáng vẻ khác nhau được bố trí nằm sát hồ Trừng Minh, đối xứng qua tòa nhà chính Minh Lâu đã góp phần tạo nên vẻ đẹp nên thơ ở cảnh vườn lăng vua Minh Mạng.
Phía sau, ở hai bên Minh Lâu là hai ngọn đồi Bình sơn và Thành sơn, giữa hai đồi dựng hai Hoa biểu, như hai ngọn đuốc thiêng để đưa linh hồn nhà vua trở về với thế giới vĩnh hằng. Dưới chân hai hoa biểu còn đắp hai hòn dã sơn tạo thế phong thủy: “Tả thanh long, Hữu bạch hổ” (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) chầu vào tòa nhà Minh Lâu. Từ Minh Lâu nhìn vào Bửu Thành, dưới chân Minh Lâu là hai bồn hoa có hình chữ Thọ, trồng cây vạn tuế như lời chúc tụng nhà vua muôn tuổi.
Khu vực lăng mộ
Trước mộ vua là một hồ nước khá rộng có hình trăng non, có tên là Tân Nguyệt trì, ôm lấy Bửu Thành. Các học giả cho rằng: Đây là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình bán nguyệt ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật, đó là nhân tố tác thành vũ trụ. Bắc qua hồ là cầu Thông Minh Chính Trực nằm trên trục Thần đạo của lăng dài chừng 50m. Mố cầu xây bằng gạch vồ, mặt cầu xây phẳng ngang bằng với mặt đất, nền lát đá Thanh. Hai bên cầu có hệ thống lan can bằng sắt. Theo điển tích của đạo Nho, “Cá chép vượt Vũ môn hóa rồng”, nên hai đầu cầu bố trí hai Vũ môn với các cột trụ bằng đồng, trang trí rồng uốn lượn từ trên xuống đỉnh cột đặt búp sen bằng pháp lam. Phía trên phường môn có các lớp liên ba, chia ô hộc trang trí với các tấm Pháp lam có chủ đề, mây ngũ sắc, bát bửu và các hàng chữ Hán “Chính Đại Quang Minh” và “Thông Minh Chính Trực”
Bửu Thành – Huyền Cung
Bửu thành là một vòng thành hình tròn có chu vi 273m, cao 3,5m, chỉ trổ một lối ra vào qua Bửu Thành Môn. Bên trong Bửu thành trồng nhiều loại cây, nhưng chủ yếu vẫn là cây thông.
Theo tư liệu nhà Nguyễn thì linh cữu của hoàng đế Minh Mạng được chuyển từ Long thuyền vào quàn ở Điện lau (ngôi nhà lợp cỏ được dựng tạm bên phải Bửu Thành), sau đó được đưa theo toại đạo qua ba lớp cửa đá vào đặt tại vị trí an táng tức là Huyền Cung nằm sâu trong quả đồi, xung quanh có Bửu Thành bao bọc. Đây là công trình cuối cùng nằm trên trục Thần đạo chính, là nơi yên nghỉ của nhà vua, một nấm mồ lớn trên có nhiều cây cổ thụ, được giới hạn, bao bọc bởi một bức tường thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm mang tính biểu trưng được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng sự trường tồn vững mạnh của đất nước.
Các công trình phụ của lăng vua Minh Mạng
Ngày nay khi đến thăm lăng Minh Mạng ít ai nghĩ rằng xưa kia tại tại đây còn có thêm nhiều tòa nhà lớn nhỏ nằm rải rác xung quanh 2 bờ hồ Trừng Minh và trên các ngọn đồi ở hai bên của lăng. Rất đáng tiếc là các công trình kiến trúc phụ ấy đều bị sự tàn phá của thời gian, mối mọt, mưa bão nhiệt đới, chiến tranh và sự thờ ơ của con người. Đâu đó chỉ còn sót lại một vài mảng tường, cổng vòm, nền móng cùng với gạch ngói vương vãi.
Linh Phương Các
Là công trình được xây dựng trên một ngọn đồi mang tên Khải Trạch Sơn nằm bên trái của lăng. Đây là một cái gác 2 tầng, xây trên 3 nền đất chồng lên nhau. Ở mỗi tầng nền có những hệ thống bậc cấp để lên xuống. Gác quay mặt về hướng Nam, có bậc cấp trổ ra ở 4 phía. Dưới chân núi đặt bia đá khắc chữ Hán “Khải Trạch Sơn”. Theo các nhà nghiên cứu thì Linh Phương các là nơi dành cho các phi tần làm công việc hương khói trong lăng và sau này được dùng làm nơi thờ tự họ.
Tả Tùng Phòng và Hữu Tùng Phòng
Hai công trình này được xây dựng trên 2 ngọn đồi Tịnh Sơn và Ý Sơn. Là nơi ở của các bà vợ của nhà vua và các ông thái giám.
Quan Lan Sở
Quan Lan Sở (có nghĩa đen là nơi ngắm sóng nước mặt hồ), nằm trên ngọn đồi có tên là Đạo Thống Sơn. Là nơi dành cho vua hóng mát, ngắm cảnh hồ Trừng Minh.
Truy Tư Trai
Truy Tư Trai là nơi vua chay tịnh lòng mình để nghĩ đến tổ tiên. Công trình này đã bị đổ nát, chỉ còn lại tấm bia đá đề 3 chữ “ Phúc Ấm Sơn” (ơn trạch của tổ tiên để lại cho con cháu).
Hư Hoài Tạ và Trấn Thủy Đảo
Nằm đối xứng với Quan Lan Sở qua đường trục chính của lăng, một nền móng bằng đá Thanh sát mặt hồ Trừng Minh là Hư Hoài Tạ. Tòa nhà này nằm trên Trấn Thủy Đảo, “trấn” có nghĩa đen là đè ép, ngăn cản. Trấn thủy nghĩa là ngăn cản dòng nước để phù hợp với phong thủy địa lý. Hư Hoài Tạ một thời là công trình kiến trúc đẹp, một nhà thủy tạ soi bóng xuống hồ tạo nên vẻ đẹp nên thơ ở vườn lăng vua Minh Mạng.
Về ý nghĩa tên gọi “Tạ” nghĩa là ngôi nhà làm nửa trên đất liền, nửa trên mặt nước, thường dùng để hóng mát, nghỉ ngơi. Hư Hoài nghĩa là “không cố chấp ý kiến của mình”. Khi dùng chữ Hư Hoài Tạ để đặt tên cho công trình kiến trúc này, vua Minh Mạng chẳng những dùng nó để nghỉ ngơi mà còn làm nơi tư duy để tìm ra cái hay, cái mới hơn, chứ không cố chấp các ý kiến cổ hủ của kẻ khác hoặc của chính mình. Hư Hoài Tạ có kiến trúc kết cấu giống như Dũ Khiêm Tạ ở lăng Tự Đức.
Thần Khố
Cách Trấn Thủy Đảo khoảng 20m về phía Tây Nam có một công trình kiến trúc gọi là Thần Khố. Thần Khố là nhà kho cất giữ đồ dùng trong việc cúng tế.
Tuần Lộc Hiên
Nằm trên ngọn Đức Hóa Sơn là nơi nuôi hươu nai, quay mặt về phía Bửu Thành.
Hồ Trừng Minh
Nhìn tổng thể lăng Minh Mạng thì hồ Trừng Minh và hồ Tân Nguyệt chiếm một diện tích đáng kể, vừa tạo ra các yếu tố địa lý phong thủy, đồng thời cũng góp phần lớn vào việc tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của lăng “sơn thủy hữu tình”
Hồ Trừng Minh nhận nguồn nước từ hai con suối nhỏ bắt nguồn từ núi Cẩm Kê chảy ngầm xuyên qua đường quốc lộ 49 và La Thành của lăng, vòng tránh Bửu Thành đổ vào hai hướng phía núi Tịnh Sơn và Ý Sơn rồi chảy vào hồ. Diện tích hồ đo được 1702m2. Trừng Minh (với ý nghĩa là tỏa sáng), nhìn từ trên cao hoặc trên sơ đồ nhiều người cho rằng hai hồ nay có hình tựa chữ “nhật” (mặt trời), “nguyệt” (mặt trăng).
Giá trị kiến trúc nghệ thuật, kiến trúc của lăng Minh Mạng
Lăng vua Minh Mạng được xây dựng vào giai đoạn hưng thịnh nhất của thời nhà Nguyễn. Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và những ý tưởng của vua Minh Mạng, các nhà kiến trúc sư cùng thợ thầy của cả nước thời bấy giờ đã làm nên một kỳ tích.
Trong quy hoạch tổng thể kiến trúc của lăng vua Minh Mạng chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo. Các công trình chính được bố trí nằm trên một trục thần đạo, các công trình phụ được sắp đặt đối xứng hai bên. Lối kiến trúc này dễ tạo nên sự cứng nhắc nhưng nhờ dựa vào cảnh quan thiên nhiên mà các công trình lại trở nên hài hòa thơ mộng. Cảnh quan trong vòng la thành của lăng lại có đến 12 ngọn núi nhỏ, 3 hồ nước lớn cùng hàng trăm cây thông già. Thiên nhiên đã làm mềm mại tính đăng đối của các công trình kiến trúc. Đó là một thành công lớn của lăng vua Minh Mạng. Trước năm 1968, quanh bờ hồ còn được trồng rất nhiều cây dừa, rất tiếc là đều bị chết bởi chiến tranh, do ảnh hưởng của chất độc màu da cam.
Với hơn 600 bài thơ được khắc, khảm, chạm gắn vào trên các liên ba, đố bản của các công trình như Nhà Bia, Hiển Đức Môn, Điện Sùng Ân, Minh Lâu ở lăng vua Minh Mạng tạo nên các tác phẩm mỹ thuật lại vừa mang tính chất sử thi. Nội dung mang tính đạo đức văn hóa thâm sâu, xứng đáng là di sản ký ức của nhân loại.
Thông tin du lịch lăng vua Minh Mạng
Lăng vua Minh Mạng, cùng với Tự Đức, lăng Khải Định là ba lăng mộ vua Nguyễn luôn có trong điểm đến của các công ty lữ hành. Thông thường các tour tham quan Huế 1 ngày sẽ kết hợp 2 lăng như Khải Định – Minh Mạng hoặc Khải Định – Tự Đức.
Các lăng vua Nguyễn tập trung về phía Tây của Kinh thành Huế. Do vậy, các lăng thường nằm khá gần nhau. Nếu đam mê lịch sử Huế, các bạn hoàn toàn có thể tham quan cả ba khu lạng mộ này chỉ trong một buổi.
Thông tin du lịch lăng vua Minh Mạng
- Giá vé: Người lớn: 150k; Trẻ em: 50k
- Giờ tham quan: + Mùa hè: từ 6h30 đến 17h30+ Mùa đông: từ 7h00 đến 17h00
- Khoảng cách từ trung tâm thành phố: 7km
- Phương tiện: Đường bộ hoặc đường sông
>>> Xem thêm: Tìm hiểu lịch sử các khu lăng mộ của các vua triều Nguyễn
Nguồn: THUYẾT MINH CÁC ĐIỂM THAM QUAN THỪA THIÊN HUẾ – SỞ DU LỊCH THỪA THIÊN HUẾ